Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai Xe tăng tại Việt Nam

Bắc Việt và đồng minh

Từ giữa năm 1955, Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam đã tuyển chọn nhiều cán bộ chiến sĩ tập trung để đưa đi học bổ túc văn hóa tại Trường Văn hóa Quân đội, với mục đích tạo nguồn để đào tạo cán bộ sĩ quan cả về chỉ huy, tham mưu và các quân binh chủng kỹ thuật, trong đó có binh chủng thiết giáp. Tháng 8 năm 1956, 2 đoàn cán bộ, chiến sĩ được tuyển chọn cử đi Trung Quốc để đào tạo về tăng - thiết giáp. Đoàn thứ nhất gồm 55 người, do ông Đào Huy Vũ làm đoàn trưởng, họcvề chỉ huy kỹ thuật và xe tăng-thiết giáp. Đoàn thứ hai có 147 người, học kỹ thuật vận hành vàđảm bảo kỹ thuật xe[8]. Từ cuối tháng 7 năm 1959, các đoàn học viên lần lượt tập trung tại một doanh trại quân đội ở thành phố Quế Lâm (Quảng Tây, Trung Quốc). Tháng 8 năm 1959, gần 100 xe tăng T-34 đầu tiên được chuyển thuộc cho đoàn học viên xe tăng Việt Nam, đánh số từ 100 trở đi. Cũng trong tháng 8 năm 1959, Bộ Quốc phòng quyết định xâydựng một căn cứ huấn luyện xe tăng, lấy mật danh là Công trường 92, tại khu vực núi Đanh thuộc xã Kim Long, huyện tam đảo, tỉnh Vĩnh Phú (nay thuộc huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc). Ngày 2 tháng 9 năm 1959, Thiếu tướng Trần Văn Quang, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam sang Trung Quốc thăm đoàn học viên và thay mặt Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng ra Nghị định số 449/NĐ, quyết định thành lập trung đoàn xe tăng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam mang phiên hiệu 202. Tuy nhiên, mãi 3 ngày sau, ngày 5 tháng 10 năm 1959, Bộ Quốc phòng mới ký quyết định thành lập một đơn vị thiết giáp cấp trung đoàn trực thuộc Bộ Tổng Tư lệnh, lấy phiên hiệu là Trung đoàn 202, mang mật danh H02, do Thiếu tá Đào Huy Vũ làm Trung đoàn trưởng, Thiếu tá Đặng Quang Long làm Chính ủy[8].

T-34-85

Sau khi thành lập, Đoàn H02 lần lượt được đưa về nước, làm nòng cốt để tiếp tục huấn luyện theo thực tế trong nước. Ngày 13 tháng 7 năm 1960, những chiếc xe tăng T-34 và pháo tự hành SU-76 và một số xe chuyên dụng đã được chuyên chở bằng tàu hỏa từ Trung Quốc về tới Việt Nam[9]. Đúng 17 giờ, những chiếc xe tăng T-34 do Liên Xô viện trợ đã được chuyển bằng xe lửa về tới ga Vĩnh Yên; 18 giờ 33 phút, chiếc xe tăng mang số hiệu 114 do trung sĩ Đào Văn Bàn điều khiển đã in vết xích đầu tiên trên mảnh đất Việt Nam.

Xe tăng T-34-85 được trang bị một pháo chính 85mm Zis-s-53 hoặc D-5T, 1 súng máy DT đồng trục với pháo chính cỡ nòng 7.62mm và một súng máy DT ở mặt giáp trước sử dụng bởi xạ thủ súng máy ngồi song song với lái xe. Các xe tăng của Bắc Việt Nam đã được tân trang lại ở Liên Xô trước khi chuyển giao và hầu hết nếu không muốn nói là tất cả đều có bánh xe đường trường kiểu T-54/55, có một điện đài mới hơn (kiểu 10RT). Ngoài ra, các xe T-34-85 của Việt Nam còn được bổ sung thêm một súng máy DShK cỡ nòng 12.7mm trên tháp pháo để bắn máy bay tầm thấp cũng như bộ binh, những chiếc T-34-85 nguyên bản không có vũ khí này, nó đã tăng cường sức mạnh hỏa lực cho các xe tăng, giảm bớt các nguy cơ gây nguy hiểm cho xe trên chiến trường. Tuy nhiên do nguyên bản tháp pháo không được trang bị súng máy 12.7mm nên việc bổ sung cần phải hàn thêm một bệ giá đỡ ở phía bên phải của tháp, nó khiến hạn chế tầm bắn của súng khi xạ thủ chỉ có thể quay súng về bên phải mà không thể quay sang phía bên trái nếu như vẫn ngồi trong xe.[10]

Ngày 29 tháng 2 năm 1962, Việt Nam tiếp nhận thêm một số trang bị mới bao gồm 1 xe MTY-10, 4 xe dắt T-34 do Liên Xô viện trợ. Cuối năm 1963, Việt Nam tiếp nhận thêm 72 xe T-34.[11]

Xe tăng T-34-85 tại Bảo tàng Quân khu 5, Đà Nẵng

Tuy nhiên, phải đến cuối năm 1970, Tiểu đoàn xe tăng 397 thuộc Trung đoàn 202 trang bị xe T-34 mới được đưa vào nam Quân khu 4 để chuẩn bị tham gia chiến dịch phản công Đường 9- Nam Lào cùng các Tiểu đoàn 297 (trang bị T-54/59) và 198 (trang bị PT-76). Khi đó, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã sử dụng xe tăng T-34-85 tiến công quân Mỹ lần đầu tiên trong Chiến dịch đường 9 - Nam Lào tháng 3/1971.

Chiều ngày 19/3/1975, trong chiến dịch Huế - Đà Nẵng, Đại đội xe tăng 7 (với 6 xe tăng T-34) bí mật cơ động vào tập kết ở Phương Lang Đông (Triệu Phong, Quảng Trị). Ngày 23/3, Đại đội đã phối hợp với Tiểu đoàn bộ binh 3 của Quảng Trị đánh tan Tiểu đoàn Thủy quân lục chiến 8 và giải phóng quận lỵ Mai Lĩnh, bắn cháy 2 xe tăng M41. Trong các ngày 24 và 25,3, Đại đội 7 tiếp tục cùng bộ binh tiến công quận lỵ Hướng Điền. Đại đội 7 (lúc này còn 4 xe T-34) vượt lên dẫn đầu đội hình truy kích, bắn cháy 1 xe tăng M48 Patton và 1 xe tăng M41, truy kích đến Bắc Thuận An, góp phần giải phóng tỉnh Thừa Thiên Huế ngày 25/3/1975. Đây cũng là trận đánh cuối cùng của xe tăng T-34 tại chiến trường Việt Nam.

T-54

Xe tăng T-54A số hiệu 843 bảo tàng Lịch sử quân sự ˞Hà Nội

Cũng trong năm 1960, một số đoàn học viên khác cũng được gửi đi Liên Xô để được đào tạo nâng cao và học về loại T-54 hiện đại hơn. Tuy nhiên, do những bất đồng chính trị, từ cuối năm 1964, Việt Nam không gửi các đoàn học viên sang học nữa. Ngày 1 tháng 3 năm 1961, đại đội huấn luyện, mật danh C12, được thành lập để huấn luyện đào tạo cho Sư đoàn 308 một tiểu đoàn xe tăng với quân số 172 người, đào tạo cho Bộ 10 cán bộ, 150 thợ sửa chữa xe tăng- thiết giáp và 2 đại đội xe bọc thép với quân số 164 người. Ngày 29 tháng 2 năm 1962, Việt Nam tiếp nhận thêm một số trang bị mới bao gồm 11 xe T-54 do Liên Xô viện trợ. Cuối năm 1963, Việt Nam tiếp nhận thêm 11 xe T-54[11]

Ngày 22 tháng 6 năm 1965, trung đoàn xe tăng thứ hai được thành lập trên cơ sở các học viên từ Liên Xô về cùng với những chiếc T-54 được viện trợ, mang phiên hiệu 203. Bộ Tư lệnh Thiết giáp cũng được thành lập. Trung tá Đào Huy Vũ, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 202 được cử là Phó Tư lệnh, đảm nhận quyền Tư lệnh. Trung tá Lê Ngọc Quang được cử làm Chính ủy.

Trong suốt cuộc chiến, Liên Xô đã chuyển giao 687 xe tăng cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong đó có khoảng 400 chiếc T-54. Trong chiến tranh, lần đầu tiên trong trận chiến, xe tăng Type-59Type-62 của Trung Quốc được chế tạo trên cơ sở T-54 đã được sử dụng. Khoảng 350 chiếc Type-59 và khoảng 100 chiếc Type-62 đã được nhận từ Trung Quốc. Thành tích chung của binh chủng tăng thiết giáp chiếm tỷ lệ lớn nhất là thành tích của T-54. Đổi lại, khoảng 350 - 400 xe T-54 của Việt Nam bị phá hủy trong suốt chiến tranh.

PT-76

Cuối tháng 3 năm 1961, Việt Nam tiếp nhận giúp Lào 44 xe tăng lội nước PT-76. Một lớp tậphuấn gồm 26 cán bộ, chiến sĩ được các chuyên gia Liên Xô hướng dẫn sử dụng và bảo dưỡng,để sau đó bàn giao và huấn luyện lại cho quân đội Pathet Lào.[11] Ngày 29 tháng 2 năm 1962, Việt Nam tiếp nhận thêm 19 xe PT-76. Cuối năm 1963, Việt Nam tiếpnhận thêm 31 xe PT-76. Lúc này, tổng số xe tăng thiết giáp và các xe hỗ trợ của Việt Nam đã có là 164 chiếc các loại.[11]

Theo nhà nghiên cứu Mikhail Baryatinsky, tổn thất của PT-76 trong chiến tranh "rất cao", nhưng ông không nêu rõ số lượng tổn thất, chi tiết hay đơn vị bị tổn thất rất cao.[12]

Nam Việt và đồng minh

Năm 1950, Chính phủ Quốc gia Việt Nam thành lập Quân đội Quốc gia Việt Nam. Đã đượcQuân đội Liên hiệp Pháp hỗ trợ để thành lập một đơn vị Thám thính xa. Khi hiệp định Genèveđược ký kết chia đôi đất nước vào ngày 20 tháng 7 năm 1954. Binh chủng Thiết giáp gồm 1 Liênđoàn Thuỷ xa và 4 Trung đoàn Biệt lập. Năm 1955, nền Đệ Nhất Cộng hòa hình thành thì Bộ chỉ huy Thiết giáp mới được chính thức thành lập.Bộ chỉ huy Thiết Giáp được thành lập vào ngày 1 tháng 4 năm 1955 do Trung tá Dương Ngọc Lắm làm Chỉ huy trưởng đầu tiên. Những chiến xa đầu tiên của binh chủng đều thuộc loại M24 Chaffees hạng nhẹ và loại M-8 chạy bánh (Đều do Quân đội Pháp để lại). Đến năm 1956, Thiết Giáp Kỵ Binh được tổ chức tiêu chuẩn hơn gồm những Trung đoàn Kỵ binh, mỗi Trung đoàn có 2 Chi đoàn được trang bị xe tăng M3, M8 và M24.

M24 Chaffe

Người Pháp, trước khi rút quân khỏi Đông Dương, đã chuyển một số lượng đáng kể M24 cho quân đội Nam Việt NamLào. Như vậy, miền Nam Việt Nam đã nhận 10 xe tăng loại này từ Pháp[13] và 50 xe tăng từ Hoa Kỳ [14]. Chúng phục vụ trong các đại đội xe tăng 1, 2, 3 và 4 của quân đội Nam Việt Nam.[15]

Cho đến năm 1956, các đơn vị Nam Việt Nam sử dụng xe bọc thép ở một mức độ hạn chế, cả do chúng bị hao mòn mạnh và do trình độ đào tạo kíp lái thấp.[16] Tình hình chỉ được cải thiện phần nào khi có sự xuất hiện của các cố vấn quân sự Hoa Kỳ ở miền Nam Việt Nam; tuy nhiên, ngay cả sau đó, trình độ huấn luyện chiến đấu của các đơn vị miền Nam Việt Nam vẫn tiếp tục ở mức thấp.[17]

Những chiếc M24 của Nam Việt Nam diễu hành ở Sài Gòn, đầu những năm 1960

Kể từ tháng 1 năm 1965, những chiếc M24 trong lực lượng thiết giáp miền Nam Việt Nam dần được thay thế bằng những chiếc xe tăng M41 Walker Bulldog do Hoa Kỳ cung cấp, vì vậy khi bắt đầu tăng cường chiến sự, số lượng của chúng đã tương đối ít.[18] Tuy nhiên, M24 tiếp tục phục vụ trong các đơn vị miền Nam Việt Nam ít nhất là cho đến năm 1972 và được sử dụng, đặc biệt là trong cuộc tấn công Tết Mậu Thân năm 1968.[19]

M24, được bao phủ bởi một bức tường bao cát, phục vụ như một trạm kiểm soát ở Việt Nam, 1965

M41 Walker Bulldog

Vào tháng 1 năm 1965, M41 bắt đầu được giao cho quân đội miền Nam Việt Nam, sau đó chúng được sử dụng rộng rãi trong Chiến tranh Việt Nam. Tổng cộng, miền Nam Việt Nam đã nhận được ít nhất 599 xe tăng như vậy: 580 chiếc từ đầu cuộc chiến đến ngày 15 tháng 12 năm 1972[20] và 19 chiếc vào năm 1974.[21]

Việc sử dụng thường xuyên M41 của quân đội và chính trị gia Việt Nam Cộng hòa trong các cuộc đảo chính nên đôi khi người Mỹ gọi M41 là "xe tăng các cuộc đảo chính" (coup tanks) hoặc "xe tăng biểu quyết" (voting machines).[22]

Các đơn vị trang bị xe tăng M41ː

  • Đại đội 1 lữ đoàn thiết giáp số 3;
  • Đại đội 3 lữ đoàn thiết giáp số 2;
  • Đại đội 4 lữ đoàn thiết giáp số 1;
  • Đại đội 5 lữ đoàn thiết giáp số 3;
  • Đại đội 7 lữ đoàn thiết giáp số 1;
  • Đại đội 8 lữ đoàn thiết giáp số 2;
  • Đại đội 11 lữ đoàn thiết giáp số 1;
  • Đại đội 14 lữ đoàn thiết giáp số 2;
  • Đại đội 15 lữ đoàn thiết giáp số 3;
  • Đại đội 17 lữ đoàn thiết giáp số 1;
  • Đại đội 18 lữ đoàn 3 thiết giáp số 3;
  • Đại đội 19 lữ đoàn thiết giáp số 2;
  • Tiểu đoàn huấn luyện lữ đoàn thiết giáp số 3.[23]
  • Đơn vị PHILCAG-V của Philippines được trang bị 2 xe tăng M41 nhận được vào tháng 7 năm 1966.[24]

Biên chế của đại đội xe tăng VNCH gồm 17 xe M41. Trong cuốn sách "Walker Bulldog vs T-54: Lào và Việt Nam 1971-75", Chris McNab tuyên bố rằng M41 cũng đang phục vụ cho các đại đội xe tăng thứ 2, 6, 9, 10 và 12 của ARV [25]. Tuy nhiên theo tài liệu của các quan chức Mỹ, các đơn vị này chỉ được trang bị thiết giáp chở quân.[23]

M48 Patton

Các đơn vị Mỹ với xe tăng M48:

  • Đại đội A, Trung đoàn 1, Sư đoàn bộ binh 23 Lục quân Hoa Kỳ: 8/1967 - 4/1972
  • Đại đội B, Trung đoàn 1, Sư đoàn bộ binh 4 Lục quân Hoa Kỳ: 8/1967 - 10/1970
  • Đại đội A, Trung đoàn 4, Sư đoàn bộ binh 1 Lục quân Hoa Kỳ: 10/1965- 4/1970
  • Đại đội C, Trung đoàn 4,Sư đoàn bộ binh 25 Lục quân Hoa Kỳ: 2 /1966- 4/1970
  • Đại đội C, Trung đoàn 5, Sư đoàn bộ binh 9 Lục quân Hoa Kỳ: 1/1967 - 10/1970
  • Đại đội A, Trung đoàn 10, Sư đoàn bộ binh 4 Lục quân Hoa Kỳ: 9/1966 - 11/1971
  • Đại đội A, Trung đoàn Thiết giáp số 11, Lục quân Hoa Kỳ: 9/1966 - 3/1971
  • Đại đội B, Trung đoàn Thiết giáp số 11, Lục quân Hoa Kỳ: 9/1966 - 4/1972
  • Đại đội C Trung đoàn Thiết giáp số 11, Lục quân Hoa Kỳ: 9/1966 - 3 /1971[26]
  • Tiểu đoàn 2, Trung đoàn Thiết giáp 34, Sư đoàn bộ binh 25, Lục quân Hoa Kỳ: 8/1966 - 12/1970[27]
  • Tiểu đoàn 1, Trung đoàn Thiết giáp 69, Sư đoàn Bộ binh 4, Lục quân Hoa Kỳ: 3/1966 - 4/1970[28]
  • Tiểu đoàn 1, Trung đoàn Thiết giáp 77, Sư đoàn Bộ binh 5, Lục quân Hoa Kỳ: 7/1968 - 7/1971[29]
  • Tiểu đoàn xe tăng USMC 1: 3/1966 - 3/1970
  • Tiểu đoàn xe tăng 3 USMC: 3/1965 - 10/1970
  • Tiểu đoàn xe tăng 5 Hoa Kỳ (không bao gồm Đại đội 3): 7/1967- 11 /1969[30]

Biên chế của đại đội gồm có 17 xe tăng M48, tiểu đoàn - 57 xe tăng M48, trung đoàn 11 - 132 xe tăng M48.

Ban đầu, các xe tăng mới được lên kế hoạch thử nghiệm với số lượng hạn chế như một phần của lực lượng mặt đất. Mặc dù vậy, các thủy thủ là những người đầu tiên đưa xe tăng đến Việt Nam vào tháng 3/1965. Các cuộc đụng độ quân sự đầu tiên diễn ra vào mùa hè. Đến cuối năm, Tiểu đoàn xe tăng 3 Hoa Kỳ có 65 xe M48 trong dòng và 12 xe phun lửa M67 tại Việt Nam.

M48A3 sau vụ nổ mìn tại Việt Nam

Tháng 9 năm 1966, tiểu đoàn 2 của trung đoàn xe tăng 34 đến Việt Nam. Trong cuộc hành quân lớn đầu tiên thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh, 34 chiến xa M48A3 ngay lập tức bị kẹt trong bùn, chiếm hơn một nửa số xe, hoạt động tạm thời bị đình chỉ.[31]

Ngày 2 tháng 12 năm 1966, một chiến xa Mỹ dưới sự yểm trợ của Đại đội 1 Trung đoàn xe tăng 11 tại khu vực Soi Kata đã bị Tiểu đoàn 275 bộ binh Bắc Việt phục kích. Quân Bắc Việt đã bị đánh bại bởi hỏa lực của xe tăng M48 và ACAV, khiến 93 người thiệt mạng và phải rút lui.[32]

Vào ngày 31 tháng 12 năm 1967, một đoàn xe vận tải gồm 60 chiếc dưới sự che chở của 11 xe bọc thép (2 xe tăng M48 của Trung đoàn 5 C, 8 xe bọc thép chở quân ACAV và 1 đơn vị súng cối), trước khi đến trại Blackhorse, đã bị phục kích bởi bộ binh. Trong vòng 10 phút, các xe hộ tống đã bị hỏa lực của Việt Cộng phá hủy: cả xe tăng, bảy chiếc ACAV và một đơn vị súng cối bị vô hiệu hóa, 42 lính Mỹ bị chết và bị thương. Việt Cộng không bị tổn thất gì (không chết cũng không bị thương).[33]

Đầu năm 1968, hàng trăm chiếc M48 của Mỹ đã tham gia cuộc tấn công năm mới. Các trận đánh lớn nhất có sự tham gia của quân lính Mỹ diễn ra ở Khe Sanh, Huế, Longwin và Sài Gòn. Trong quá trình bảo vệ cứ điểm Khe Sanh, 5 xe tăng M48 đã tham chiến. Tại Huế, cùng với M24M41 của VNCH, hai M48 và hai M67 phòng thủ. Các xe Pattons đóng một vai trò quyết định trong trận chiến khó khăn này. Một chiếc M48 đã bị phá hủy[34]. Trong cuộc tấn công, VNDCCH và các du kích miền Nam Việt Nam lần đầu tiên bắt đầu sử dụng ồ ạt các loại súng phóng lựu chống tăng RPG-7 mới nhất., dẫn đến tổn thất nặng nề giữa các tàu chở dầu, đặc biệt là tàu chở xăng M48A1. Như Đại tá Lục quân Hoa Kỳ Frederick Oldinsky, người từng phục vụ tại Việt Nam với tư cách là cố vấn quân sự, đã chỉ ra rằng, nếu lựu đạn RPG-2 trong hầu hết các trường hợp có thể chống được giáp M48, thì một cú đánh từ RPG-7 vào bất kỳ điểm nào của xe tăng đều xuyên qua lớp giáp xe.[35] Một trường hợp được ghi nhận khi một xe tăng nhận được 19 đợt tấn công mỗi ngày và hai trong số các tổ lái của nó bị mất khả năng chiến đấu, nhưng nó vẫn sẵn sàng chiến đấu.[36]

Vào tháng 1 năm 1969, xe tăng hạng trung M48 Patton bắt đầu được thay thế bằng xe tăng hạng nhẹ M551 Sheridan; lính tăng Mỹ phản ứng cực kỳ tiêu cực với sự thay thế này, vì Sheridans không cung cấp sự bảo vệ đáng tin cậy cho kíp lái khỏi đạn RPGmìn, không giống như M48.[37]

Số lượng xe tăng M48 tối đa đạt được vào giữa năm 1968, khi tất cả các đơn vị đều đến nơi.[38] Lục quân Hoa Kỳ có hơn 400 xe tăng M48; USMC có hơn 150 xe tăng M48, với tổng số khoảng 600 xe.[39]

Từ năm 1965 đến năm 1968, Hoa Kỳ đã mất 120 Patton do thiệt hại chiến đấu.[40] Từ tháng 7 năm 1968 đến tháng 6 năm 1969, 63 xe tăng M48 đã bị tiêu diệt bởi các hành động của đối phương.[41] Từ năm 1969 đến năm 1972, số lượng M48 được sử dụng ít hơn nhiều (chúng được thay thế bằng M551) và tổn thất không thể thu hồi lên tới 3 chiếc M48A3, tổn thất có thể có của các Patton khác trong giai đoạn này là không rõ.[40] Điều này làm mất ít nhất 123 M48. Được biết, tổng cộng trong toàn bộ cuộc chiến, Hoa Kỳ mất khoảng 350 xe tăng, nhưng bao nhiêu trong số đó là M48 thì không rõ[42].

Các đơn vị Nam Việt Nam với xe tăng M48:

  • Trung đoàn xe tăng 20 thuộc lữ đoàn xe tăng 1.
  • Trung đoàn xe tăng 21 thuộc lữ đoàn xe tăng 2.
  • Trung đoàn xe tăng 22 thuộc lữ đoàn xe tăng 3.
  • Tiểu đoàn xe tăng huấn luyện.

Một trung đoàn VNCH là tương đương với một tiểu đoàn trong QĐ Mỹ, một thiết đoàn Quân Lực VNCH là tương đương với đại đội hoặc phân đội kỵ binh Mỹ. Thành phần chính quy của trung đoàn gồm 57 xe tăng M48[43]

Tổng cộng, tính đến ngày 15 tháng 12 năm 1972, Nam Việt Nam đã nhận được 329 xe tăng M48A3 từ Hoa Kỳ[44]. Từ tháng 1 năm 1973 đến tháng 7 năm 1974, Hoa Kỳ đã chuyển giao 16 xe tăng M48 cho Việt Nam (theo GAO).[45] Trong tổng số 345 M48 cung cấp cho ARV, không có thông tin nào về các chuyến hàng sau tháng 7 năm 1974. Điều đáng chú ý là báo cáo của Quốc hội Mỹ cho năm 1975 đề cập đến việc cung cấp 343 M48 cho ARV trong toàn bộ thời gian là đồng minh.[46]

Đến cuối tháng 1 năm 1973, QLVNCHM48 trong biên chế với 3 trung đoàn xe tăng[47]: 20, 21 và 22.[48]

Tính đến tháng 4 năm 1974, CIA ước tính miền Nam Việt Nam có 600 xe tăng và 1.800 khẩu pháo. Bắc Việt Nam có 600 xe tăng và 350 khẩu pháo.

Tính đến tháng 1 năm 1974, miền Nam Việt Nam có 277 xe tăng M48A3:

  • MR1: Trung đoàn 20, Lữ đoàn 1 - 54 xe M48, trong đó 53 xe sẵn sàng chiến đấu.
  • MR2: Trung đoàn 21, Lữ đoàn 2 - 54 xe M48, trong đó 47 xe sẵn sàng chiến đấu.
  • MR3: Trung đoàn 22, Lữ đoàn 3 - 56 xe M48, trong đó 54 xe sẵn sàng chiến đấu;
  • Tiểu đoàn huấn luyện - 11 M48, tất cả sẵn sàng chiến đấu.
  • Đang dự trữ / sửa chữa - 88 M48.[49]
M48-Patton tại Sài Gòn

Tính đến tháng 7 năm 1974, miền Nam Việt Nam có 288 xe tăng M48A3:

  • MR1: Trung đoàn 20, Lữ đoàn 1 - 55 xe M48, trong đó 54 sẵn sàng chiến đấu.
  • MR2: Trung đoàn 21, Lữ đoàn 2 - 61 xe M48, trong đó 52 chiếc sẵn sàng chiến đấu.
  • MR3: Trung đoàn 22, Lữ đoàn 3 - 59 xe M48, trong đó 53 chiếc sẵn sàng chiến đấu;
  • Tiểu đoàn huấn luyện - 11 xe M48, 10 chiếc sẵn sàng chiến đấu.
  • Đang dự trữ / sửa chữa - 102 M48.[50]

Tính đến tháng 10 năm 1974, miền Nam Việt Nam có 271 xe tăng M48A3:

  • MR1: Trung đoàn 20, Lữ đoàn 1 - 54 xe M48, tất cả đều hoạt động.
  • MR2: Trung đoàn 21, Lữ đoàn 2 - 54 xe M48, trong đó 51 chiếc sẵn sàng chiến đấu.
  • MR3: Trung đoàn 22, Lữ đoàn 3 - 54 xe M48, trong đó 50 chiếc sẵn sàng chiến đấu;
  • Tiểu đoàn huấn luyện - 10 M48, tất cả đều sẵn sàng chiến đấu.
  • Đang dự trữ / sửa chữa - 99 M48.[51]

Vào đầu năm 1975, theo Lầu Năm Góc, miền Nam Việt Nam có khoảng 250 xe tăng M48A3 và khoảng 300 M41[52], và Bắc Việt Nam cũng có một số ít bị bắt (theo nhà nghiên cứu phương Tây Alexander Gillespye, năm 1975 là quân đội miền Nam có 600 xe tăng M48, nếu chúng ta so sánh số liệu này với số liệu của Lầu Năm Góc, có khả năng con số này bao gồm cả xe tăng M41 [53]). Vào tháng 3, quân miền Bắc đã phát động cuộc tấn công cuối cùng của họ, trong đó những chiếc T-54 của Bắc Việt và những chiếc M48 bị bắt giữ đã chiến đấu với quân lính Mỹ của miền Nam Việt Nam. Ngày 30 tháng 4, quân lính Bắc Việt thuộc Trung đoàn 202 thiết giáp tham gia đánh chiếm Sài Gòn[54]. Tất cả 250 chiếc M48 của Nam Việt Nam đã bị mất[55], một số người trong số chúng đã đến tay quân Bắc Việt như chiến lợi phẩm. Ví dụ, tại Quân khu 2, lính tăng Nam Việt Nam toàn lực đã bỏ lại các xe M48 thuộc tiểu đoàn 21 từ lữ đoàn 2.[48][56]

Như vậy, trong toàn bộ cuộc chiến, Hoa Kỳ và Nam Việt Nam, theo ước tính tối thiểu, đã mất khoảng 500 xe tăng M48 một cách không thể cứu vãn được. Một tiểu đoàn xe tăng M48A3 bị bắt đã được Bắc Việt giao cho CHDC Đức, từ đó một đơn vị đặc nhiệm được thành lập[57]. Việt Nam đã bàn giao ít nhất một xe M48 cho Liên Xô[58], và một chiếc khác được bàn giao cho Cuba.[59]

M67

Xe tăng M67 được chế tạo vào năm 1952 - 1954, là biến thể phun lửa dựa trên xe tăng M48, theo sáng kiến của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ. Trong quá trình sản xuất hàng loạt, kéo dài từ năm 1955 đến, theo nhiều nguồn tin khác nhau, năm 1956 hoặc 1959, 109 xe tăng M67 đã được sản xuất cho Lực lượng Thủy quân lục chiếnLục quân Hoa Kỳ.

M67 tại ngoại ô Sài Gòn tháng 1 năm 1966

Theo quy định, M67 không được phép triển khai cho quân đội tại Việt Nam[60], nhưng Thủy quân lục chiến không có bất kỳ hạn chế cụ thể nào đối với việc sử dụng các phương tiện bọc thép của họ, kể cả M67, ngay từ đầu cuộc chiến.[61] Tại Việt Nam, những chiếc M67A2 thuộc tiểu đoàn xe tăng 1 và 3[62], được trang bị 12 xe tăng phun lửa vào cuối năm 1965.[61] Tính chung, trong biên chế của Thủy quân lục chiến, tính đến năm 1967, có 73 chiếc M67 trong tổng số 75 chiếc được nhà nước đặt mua. Trong số này có 36 xe(trong đó có 34 xe sẵn sàng chiến đấu) thuộc các đơn vị chiến đấu - 4 tiểu đoàn xe tăng.[63]

M67 đã được sử dụng trong một số chiến dịch trong Chiến tranh Việt Nam. Một trong những chiến dịch đầu tiên trong số này là Chiến dịch Starlite, trong đó một đội gồm 3 xe tăng phun lửa, cùng với 5 xe M48, được triển khai tại khu vực Xanh để hỗ trợ cho Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 7 Thủy quân lục chiến.[64][65] Tại cuộc chiến tại Huế trong năm 1968, những chiếc xe tăng đầu tiên tiến vào thành phố là hai chiếc M67, cùng với hai M48 từ sở chỉ huy đại đội của tiểu đoàn xe tăng 3, chuyển hướng trong quá trình chuyển giao tiểu đoàn vào Quảng Trị. Trong 11 ngày, bốn chiến xa này là những phương tiện thiết giáp duy nhất của Thủy quân lục chiến trong thành phố, yểm trợ cho Tiểu đoàn 2 của Trung đoàn 5 và Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 1 Thủy quân lục chiến trong các trận đánh phía nam sông Hương.[66][67] Tại Huế, các xe tăng súng phun lửa cũng được sử dụng cho các nhiệm vụ an ninh, tuy nhiên, do không có đủ phương tiện tiếp liệu cần thiết để tiếp nhiên liệu bằng hỗn hợp lửa, M67 sử dụng vũ khí súng máy của chúng thường xuyên hơn nhiều so với súng phun lửa.[68]

Thông thường, xe tăng súng phun lửa ở Việt Nam được sử dụng đơn lẻ,[69] và khẩu M67 thường được đưa vào các trung đội xe tăng thông thường để tăng cường hỏa lực cho chúng.[70] Nhìn chung, việc sử dụng M67 ở Việt Nam còn nhiều hạn chế. Do không có đủ lượng hỗn hợp hỏa lực có thể vận chuyển để sử dụng trong các cuộc đột kích vào sâu, M67 được sử dụng chủ yếu trong hệ thống phòng thủ căn cứ.[71] Tại các căn cứ, việc sử dụng M67 để đốt thực vật xung quanh chu vi và đốt chất thải không phải là hiếm.[72] Ngoài việc không đủ đạn, một trong những nguyên nhân khiến việc sử dụng súng phun lửa ở Việt Nam còn hạn chế là do việc sử dụng tích cực các đợt ném bom napalm trên không. Không quân của Thủy quân lục chiến đã giảm nhu cầu về súng phun lửa trên mặt đất.[73]

Trong điều kiện chiến tranh du kích, điển hình của cuộc giao tranh ở Việt Nam là việc sử dụng xe tăng phun lửa để tiến hành tán công tại những nơi có thể trú ẩn của du kích,[74] đặc biệt là khi canh gác chốt - để đốt cháy các bụi rậm dọc theo sườn của đường. Ngoài ra, M67 còn tỏ ra là một phương tiện hữu hiệu để chống phục kích.[75] Một trong những vai trò truyền thống của súng phun lửa là chống lại các vị trí kiên cố; Đặc biệt, M67 được sử dụng để đốt cháy các công sự của Việt Nam trong vùng lân cận căn cứ Cồn Thiên.[76] Phá hủy những kho đạn dược trở thành một trong những nhiệm vụ chính của M67 trong các chiến dịch tấn công ở Việt Nam,[77] và trong vai trò này, xe tăng phun lửa đã thể hiện mình rất thành công.[78]

M67 đốt cháy bụi cây ven đường tại Việt Nam năm 1967

Các đánh giá chung về M67 của các chuyên gia, cũng như các xe tăng phun lửa nói chung, là trái chiều. Một mặt, súng phun lửa có tác động tâm lý đáng kể [79] và kinh nghiệm của các cuộc xung đột sau chiến tranh cho thấy hiệu quả của nó trong cuộc chiến chống lại nhân lực, công sự và thiết bị.[80] Đồng thời, một nhược điểm nghiêm trọng của M67, biểu hiện trong các cuộc chiến ở Việt Nam, đó là thiếu dự trữ hỗn hợp hỏa lực để sử dụng xe tăng trong các cuộc hành quân lâu dài. Mặc dù xe tăng phun lửa đôi khi cũng tham gia vào các hoạt động tấn công, nhưng không đơn vị nào sẵn sàng đưa các phương tiện tiếp tế không bọc thép vào trận chiến để tiếp nhiên liệu cho chúng.[72][81] Ngoài ra, các thùng chứa súng phun lửa yêu cầu nguồn cung cấp riêng xăng, các thành phần hỗn hợp cháy và khí nén, cùng với nhu cầu sử dụng các phương tiện hỗ trợ đặc biệt, đã tạo thêm gánh nặng cho các công tác hậu cần và là một lý do khác dẫn đến thái độ tiêu cực với M67 bởi chỉ huy xe tăng.[78] Ngoài cơ số đạn nhỏ, súng phun lửa dù có tầm bắn tương đối ngắn cũng có độ chính xác thấp.[79]

Các nguồn tin không đề cập đến bất kỳ tuyên bố nào về độ tin cậy của tổ hợp vũ khí M67, nhưng khung gầm M48A3 cơ bản vào đầu những năm 1970 đã được coi là không đáp ứng các yêu cầu đối với chỉ số này, đó là một trong những lý do khiến M67A2 bị loại khỏi biên chế.[82] Mặc dù có những thiếu sót, M67 được đánh giá là đáp ứng các yêu cầu[77] dựa trên kinh nghiệm chiến đấu,[77] và cũng được công nhận là phù hợp nhất với điều kiện cụ thể của Chiến tranh Việt Nam.[74] Đồng thời, mặc dù so với các phương tiện súng phun lửa M132 trên xe bọc thép chở quân cũng được sử dụng ở Việt Nam, khung gầm xe tăng có lớp giáp tốt hơn, M67 cũng đắt hơn gấp nhiều lần, kể cả trong thời gian phục vụ, đó là lý do khiến M67 bị Quân đội Hoa Kỳ loại bỏ.[77]

M67 thuộc Tiểu đoàn xe tăng 1 đốt cháy một ngôi làng Việt Nam ở khu vực Bình Sơn trong Chiến dịch Doser

Theo các chuyên gia phương Tây, giáp chống pháo của M67 có thể sử dụng chúng ở rìa phía trước,[83] điều này khiến nó có thể sử dụng vũ khí súng phun lửa hiệu quả hơn, với tầm bắn hạn chế so với các loại xe bọc thép hạng nhẹ, và thậm chí nhiều hơn nữa các mô hình cầm tay. Tuy nhiên, tại Liên Xô, vào đầu những năm 1960, quân đội đã đi đến kết luận rằng tiến bộ trong lĩnh vực vũ khí chống tăng khiến việc sử dụng xe tăng với súng phun lửa kiểu phản lực không hiệu quả.[80] Có cơ sở cho ý kiến ​​này: đối với việc sử dụng vũ khí của họ, tầm bắn tối đa không vượt quá 200-250 và hiệu quả - 100 mét,[79][84] xe tăng phun lửa không chỉ phải đi vào tầm bắn chính xác của xe tăng, súng chống tăngsúng không giật,có khả năng bắn nó từ khoảng cách 400-1000 mét và không gặp vấn đề gì khi xuyên giáp[85]- mà thậm chí còn liên quan nhiều hơn đến những người dần dần nhận được sự phổ biến của ATGM  - mà còn vào khu vực sử dụng hiệu quả các loại vũ khí chống tăng thủ công hàng loạt ở cấp trung đội; Hơn nữa, nếu RPG-2 đời đầu, theo kinh nghiệm của Chiến tranh Việt Nam, tỏ ra kém hiệu quả trước lớp giáp của nó, thì RPG-7, được sử dụng vào năm 1961, cung cấp khoảng 40% cơ hội bắn trúng và tiêu diệt M48A5 (M67A2) chỉ với một phát bắn.[86] Vòm của chỉ huy M1 cũng bị chỉ trích, nó không chỉ làm tăng kích thước và giảm tầm nhìn của xe tăng mà còn không cung cấp đủ khả năng bảo vệ cho chỉ huy. Tình huống sau càng trở nên trầm trọng hơn bởi thực tế là tầm bắn ngắn của M67 tạo cơ hội cho đối phương nhắm bắn vào các thiết bị quan sát dễ bị tổn thương của tháp pháo.[87] Hệ thống chữa cháy lỗi thời không góp phần làm tăng khả năng sống sót của xe tăng, về cơ bản không thay đổi kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai. Mặc dù thực tế là một xe tăng với hơn một tấn hỗn hợp cháy được đặt trong tháp pháo của xe tăng, để dập tắt đám cháy trong khoang chữa cháy, kíp lái chỉ có một bình chữa cháy carbon dioxide thủ công.[88][89][90]

M551 Sheridan

Từ năm 1966, Bộ tham mưu Lục quân Hoa Kỳ tại Washington đã khuyến nghị với Tư lệnh lực lượng Hoa Kỳ ở miền Nam Việt Nam, Tướng Westmoreland, rằng Sheridan nên được sử dụng ở Việt Nam. Tuy nhiên, vì đạn của pháo chính không có sẵn, ông cho rằng đó chỉ đơn giản là bệ súng máy trị giá 300.000 USD.[91] Đến năm 1968, chỉ huy mới, hoặc sắp tới là của Hoa Kỳ ở miền Nam Việt Nam, Tướng Creighton Abrams, đã được thông báo rằng đạn pháo 152mm hiện đã có sẵn cho Sheridan. Tuy nhiên, khi Tướng Abrams bắt đầu chuẩn bị cho việc trang bị phương tiện này cho các đội thiết giáp kỵ Hoa Kỳ, các đơn vị bị ảnh hưởng đã bày tỏ lo ngại rằng xe tăng giáp nhôm mới không chỉ rất dễ bị mìn và hỏa tiễn chống tăng tấn công, mà còn không. có khả năng "phá rừng" như các xe tăng hạng trung M48A3.[91]

Cuối năm 1968, Tướng Abrams gặp Đại tá George S. Patton IV - con trai của Tướng Patton trong Thế chiến II - là trung đoàn trưởng của Trung đoàn Thiết giáp 11 (11 ACR), trung đoàn kỵ binh đầy đủ duy nhất ở miền Nam Việt Nam. Khi Tướng Abrams đề cập đến mối quan tâm của quân đội đối với phương tiện mới, Patton khuyến nghị Sheridans nên được thử nghiệm chiến đấu bởi một sư đoàn thiết giáp kỵ cũng như một đội từ trung đoàn của ông ta; vì các đội có các nhiệm vụ hoàn toàn khác nhau.[91]

Những chiếc Sheridans đầu tiên đến miền Nam Việt Nam đã làm như vậy vào tháng 1 năm 1969 và được tháp tùng bởi các đại diện nhà máy, người hướng dẫn và người đánh giá khi các phương tiện mới được cấp cho Hải đội 3, Trung đoàn 4 Kỵ binh[92] và Hải đội 1 của Sư đoàn 11 ACR.[91]  Đến cuối năm 1970, có hơn 200 Sheridan ở miền Nam Việt Nam[93],  và chúng ở lại chiến trường cho đến khi đơn vị kỵ binh bọc thép cuối cùng của Hoa Kỳ, Phi đội 1, Trung đoàn 1 Kỵ binh chuẩn bị tái triển khai trở lại Hoa Kỳ vào ngày 10 tháng 4 năm 1972.[94]  Sau cuối trận mở màn năm 1972, xe Sheridan đã có nhiều hành động trong Chiến tranh Việt Nam, được giao cho gần như tất cả các đội kỵ binh thiết giáp tham gia cuộc chiến. Năm 1969, các đơn vị kỵ binh bọc thép (trừ ACR 11, vẫn giữ lại các đại đội xe tăng M48) bắt đầu thay thế các xe tăng M48 Patton của họ, đến lượt nó được chuyển giao cho quân đội Nam Việt Nam. Giống như xe chống tăng M50 Ontos, các báo cáo chiến đấu từ quân đội đôi khi tâng bốc, trong khi các báo cáo cấp cao hơn trong chuỗi chỉ huy thường là tiêu cực. Điều này phần lớn là do tỷ lệ thương vong cao của cả Sheridan và kíp lái vì mìn và súng phóng lựu (RPG) chỉ gây sát thương cho xe tăng M48 Patton, sẽ phá hủy Sheridan và giết chết hoặc bị thương hầu hết, nếu không phải tất cả kíp lái.[95]

Một đánh giá năm 1969 của các phương tiện phát hiện ra rằng M551 được sử dụng trong trinh sát, tuần tra đêm và dọn dẹp đường phố, tích lũy 39.455 dặm đường và 520 nhiệm vụ chiến đấu, với một tốc độ sẵn sàng của 81,3 phần trăm. Mặc dù có lđiểm yếu đối với tên lửa và mìn, nó được đánh giá là xứng đáng để áp dụng các sửa đổi và trang bị cho tất cả các đội kỵ binh.[96]

Sheridan có một số ưu điểm: nó không thường xuyên bị mắc kẹt trong bùn như xe tăng M48 Patton 52 tấn, cũng như không thường đứt xích.[97] Chỉ riêng điều này đã đủ để giành được sự ưu ái của các đội xe tăng. Trọng lượng nhẹ và tính cơ động cao đã chứng tỏ giá trị của chúng, và khẩu súng đã chứng tỏ là một vũ khí chống người hiệu quả khi được sử dụng với đạn M657 HE hoặc đạn M625, vốn sử dụng hàng nghìn viên đạn nhỏ.

Kíp lái và một chiếc M551 Sheridan thuộc Chi đội 3,Thiết Kỵ đoàn số 4 trên chiến trường Việt Nam

Tuy nhiên, độ tin cậy của hệ thống động cơ và pháo của xe tăng không hoàn toàn đáp ứng được nhiệm vụ. Trong số 74 chiếc M551 được đưa đến Việt Nam vào tháng 2 năm 1969, tính đến tháng 5 đã có 16 lỗi cơ khí nghiêm trọng, 41 lần bị bắn hỏng, 140 đạn dược bị lỗi và 25 động cơ bị cháy; bản thân tháp pháo có 125 lỗi điện, một số lỗi hệ thống giật và các trường hợp pháo nổ. Thêm một vấn đề nữa, phần lớn đạn súng máy mang theo phải được cất giữ bên ngoài tháp pháo vì không gian bên trong cực kỳ hạn chế.[98]

Mặc dù trung bình một kíp lái M48 Patton có thể bắn tới 17 quả đạn pháo 90mm trong một "phút điên cuồng" (60 giây với lệnh khai hỏa của tất cả các loại súng), Sheridan được biết là chỉ bắn ra hai quả đạn 152mm trong cùng một khung thời gian. Trong khi khẩu pháo 90mm của M48 bắn các loại đạn có vỏ bọc kim loại cố định, thì pháo 152mm lại không có đạn. Các viên đạn không có tiền mặt cần có lỗ thông hơi để làm sạch ống súng và khóa nòng trước khi nạp một viên đạn khác, trong khi khối khóa nòng M48 mở ra khi quả đạn đã sử dụng được đẩy ra và đóng lại khi quả đạn mới được nhét vào. Bộ nạp đạn càng nhanh, Patton khai hỏa càng nhanh. Đối với Sheridan, bộ nạp phải đợi cơ chế. Sau khi bắn, người nạp đạn sẽ phải đợi, vì khóa nòng từ từ mở ra phía sau rồi quay xuống phía dưới. Sau khi một công cụ khác chỉ ra rằng tất cả các hệ thống tháp pháo vẫn hoạt động.[99]

Sheridan được đánh giá cao bởi bộ binh, những đơn vị khao khát được hỗ trợ hỏa lực trực tiếp, và thường phục vụ trong các đơn vị kỵ binh thiết giáp cùng với ACAV (M113). Các đơn vị thiết giáp chỉ gồm xe tăng (trừ đại đội sở chỉ huy) và các đơn vị bộ binh cơ giới chỉ gồm M113. Trong vai trò này, vấn đề thực sự với Sheridan là tải trọng đạn dược hạn chế của nó; thông thường, chỉ có 20 viên đạn và 8 tên lửa. Mặc dù vậy, những chiếc M551 trong biên chế Nam Việt Nam không được trang bị tên lửa hoặc thiết bị dẫn đường, điều này đã làm tăng tải trọng cơ bản của các loại đạn thông thường. Tổn thất của Sheridan rất nặng nề trong các hoạt động bình thường, phần lớn là do mìn và vũ khí chống thiết giáp, nhưng đặc biệt nặng nề sau khi bắt đầu Chiến dịch Campuchia vào ngày 1 tháng 5 năm 1970 trong số các đội thiết giáp kỵ binh, chiếc ACR thứ 11 đã được đưa vào cuộc chiến. Tổn thất nặng nề thứ hai là trong cuộc tấn công cuối cùng của Quân đội Hoa Kỳ trong cuộc chiến là trong chiến dịch Dewey Canyon II, khi đội Sheridan còn lại của Thiết giáp Kỵ gặp thảm họa xảy ra ở biên giới Lào trong những tháng đầu năm 1971, đặc biệt là Sư đoàn 1 Kỵ binh.[100]

Centurion

Năm 1967, Phân đội Thiết giáp chở quân số 1 ​​(APC) của Quân đoàn Thiết giáp Hoàng gia Úc được chuyển giao cho Phân đội "A", Trung đoàn Kỵ binh 3 tại miền Nam Việt Nam. Mặc dù họ đã tiến hành thành công các hoạt động chiến đấu trong khu vực hoạt động của mình, các báo cáo từ thực địa cho biết rằng các xe thiết giáp chở quân hạng nhẹ M113A1 của họ không thể vượt qua rừng rậm[101], hạn chế các hành động tấn công của họ chống lại lực lượng đối phương. Chính phủ Úc, dưới sự chỉ trích của Quốc hội, đã quyết định gửi một phi đội xe tăng Centurion của Úc đến miền Nam Việt Nam.[101]  Trung đoàn 20 người được trang bị vũ khí[102] Úc thuộc Phân đội 'C', Trung đoàn thiết giáp số 1 đổ bộ vào miền Nam Việt Nam ngày 24 tháng 2 năm 1968, đặt trụ sở tại Núi Đất thuộc Quân đoàn III (MR3).[103]

Kíp lái của một chiếc Centurion Úc nói chuyện với bộ binh trong một chiến dịch ở miền Nam Việt Nam trong năm 1968

Đại tá Donald Dunstan, sau đó là thống đốc của bang Nam Úc, là phó chỉ huy lực lượng đặc nhiệm Task Force 1 (1 ATF) của Úc ở miền Nam Việt Nam.[104] Dunstan đã có thể hoàn toàn phuơng án tác chiến sử dụng kết hợp xe tăngbộ binh của Úc trong Chiến tranh thế giới thứ hai(như một phần của chiến dịch Bougainville), và là hoạt động đầu tiên kể từ sau chiến tranh để chỉ huy xe tăngbộ binh của Úc tham chiến.[105]  Khi tạm thời nắm quyền chỉ huy trong thời gian Chuẩn tướng Ronald Hughes vắng mặt, ông chỉ đạo rằng các xe Centurion được đưa lên từ Núi Đất để củng cố các căn cứ hỏa lực Coral và Balmoral, tin rằng chúng là một yếu tố quan trọng đã không được sử dụng. Ngoài việc bổ sung một lượng lớn hỏa lực, Dunstan nói, ông ta "không thể thấy bất kỳ lý do gì tại sao chúng (các xe Centurion) không nên ở đó".[106]  Tầm nhìn xa của ông đã giúp lực lượng đặc nhiệm số 1 tiêu diệt khoảng 267 binh sĩ thuộc Trung đoàn 141 và 165 của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong Trận chiến Coral – Balmoral kéo dài sáu tuần vào tháng 5 năm 1968, cũng như bắt giữ 11 tù nhân, 36 vũ khí phục vụ cho phi hành đoàn, 112 vũ khí nhỏ và các loại vũ khí khác của đối phương.[106]

Sau trận Coral-Balmoral, một phân đội Centurion thứ ba, bao gồm hai xe tăng, được thành lập. Đến tháng 9 năm 1968, Phân đội 'C' đã có đầy đủ lực lượng của 4 phân đội, mỗi phân đội được trang bị 4 xe tăng Centurion. Đến năm 1969, Phân đội 'B', Sư đoàn 3 Kỵ binh; Phân đội 'A', Trung đoàn 1 thiết giáp; Phân đội 'B', Trung đoàn 1 thiết giáp; và Phân đội 'C', Trung đoàn Thiết giáp số 1, đều đã luân chuyển qua miền Nam Việt Nam. Ban đầu được triển khai với số lượng 26 xe tăng Centurion, sau ba năm rưỡi hoạt động chiến đấu, 58 chiếc Centurion đã phục vụ tại đây; 42 chiếc đã bị hư hại trong trận chiến với 6 chiếc không thể sửa chữa được và 2 thành viên kíp lái đã thiệt mạng.[101]

Kíp lái của Centurion, sau khi hoạt động tại Nam Việt Nam vài tuần, đã sớm học cách loại bỏ các lớp giáp bảo vệ bên sườn xe tăng, để ngăn thảm thực vậtbùn tích tụ giữa bánh xích và các tấm chắn bùn. Mỗi chiếc Centurion tại Việt Nam thường mang theo cơ số 62 viên đạn loại 20 pounder, 4.000 viên đạn.50 cal và 9.000 viên đạn súng máy.30 cal cho súng máy của chỉ huy xe tăng cũng như hai súng máy đồng trục. Chúng được trang bị động cơ xăng, đòi hỏi phải sử dụng thêm một thùng nhiên liệu 100 pound-ga-lông (450 L) gắn bên ngoài, được gắn vào phía sau xe.[102][106]

Những trận đánh nổi bật

Trận Làng Vây

Trận Làng Vây thuộc "Chiến dịch Đường 9-Khe Sanh" đánh dấu lần đầu tiên QĐNDVN triển khai lực lượng thiết giáp trên chiến trường. Năm 1964, các binh sĩ của đơn vị thiết giáp đầu tiên của QĐNDVN - Trung đoàn Thiết giáp 202 - được đưa vào miền Nam Việt Nam mà không có xe tăng T-34, vì nhiệm vụ chính của họ là nghiên cứu các phương án chiến thuật thiết giáp của đối phương để chuẩn bị cho các nhiệm vụ trong tương lai. Ngày 22 tháng 6 năm 1965, Bộ Quốc phòng Bắc Việt thông qua Nghị quyết 100 / QĐ-QP thành lập Trung đoàn Thiết giáp 203 và Nghị quyết 101 / QĐ-QP thành lập Bộ Tư lệnh Lực lượng Thiết giáp.[107][108]

Ngày 5/8/1967, Bộ Tư lệnh Thiết giáp được lệnh sử dụng 2 đại đội xe tăng vào Nam chiến đấu. Đảng uỷ - Bộ Tư lệnh thiết giáp đã quyết định chọn 2 đại đội PT-76 (đại đội 3 và đại đội 9) của Trung đoàn xe tăng 203 thực hiện nhiệm vụ này, 2 đại đội được tổ chức thành một tiểu đoàn thiếu, mang phiên hiệu 198. Sau thời gian làm công tác chuẩn bị, ngày 1/10/1967, từ căn cứ ở Lương Sơn, Hòa Bình, tiểu đoàn 198 bắt đầu hành quân vào chiến trường, vượt 1.350 km theo Đường mòn Hồ Chí Minh dưới các cuộc không kích liên tục của Mỹ.

Bộ đội Việt Nam đã dùng hàng trăm ống tre kết thành giàn dựng phía trên xe tăng. Tre rỗng ở giữa góp phần tiêu hao nhiệt lượng do máy móc phát ra khiến Mỹ không thể sử dụng phương tiện cảm ứng nhiệt hiện đại để dò ra. Được che từ phía trên nên dù máy bay Mỹ bay ở trên cũng không thể biết được xe tăng và khi rải bom thì xe không hề hấn gì. Ban đêm đơn vị hành quân, ban ngày thì nghỉ ngơi để bộ đội lấy lại sức và duy tu, bảo dưỡng xe. Nhân dân các dân tộc Pa Kô, Vân Kiều huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị đã giúp đỡ quân Giải phóng như giữ bí mật nơi đóng quân, trinh sát, vận chuyển đạn pháo, bình điện cho xe tăng[109]
Bức ảnh do máy bay trinh sát của Không quân Mỹ chụp cho thấy hai xe tăng PT-76 bị phá hủy ở Lang Vei

Ngày 21/12/1967, đơn vị đã tới vị trí tập kết ở Na Bo, Nậm Khang, Ha Sinh trên đường số 9 thuộc lãnh thổ Lào để chuẩn bị và mùa khô năm 1968 thì bắt đầu hành quân từ Na Bo về làng Vây.[108]

Trước khi đánh vào căn cứ Làng Vây, nhiều bộ đội công binh đã hy sinh khi gỡ mìn cho xe tăng đi qua. Thiếu tướng Lê Xuân Tấu cho biết: khi đến giờ nổ súng (21 giờ ngày 6 tháng 2 năm 1968) thì phía trước còn đầy mìn. Lúc đó, người chỉ huy phá mìn của lực lượng công binh là trung đội phó, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Bùi Ngọc Dương bị thương, một cánh tay chỉ còn treo lủng lẳng. Anh Dương yêu cầu đồng đội của mình dùng dao găm cắt cánh tay của mình để không bị vướng nhưng không ai dám làm nên anh tự cắt, nín nhịn cơn đau và vẫn chỉ huy nhiệm vụ.

Khi nhận định bãi mìn trước mắt chỉ là mìn chống bộ binh, không thể sát thương xe tăng nên ông Tấu quyết định cho xe mình đang điều khiển tiên phong húc đổ hàng rào, tấn công cứ điểm làng Vây. Trận đánh bắt đầu lúc 23 giờ 30 phút ngày 6 tháng 2. Sau khi pháo binh bắn chế áp, bộ binh, đặc công và xe tăng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tiến công cứ điểm từ 3 hướng: nam, tây bắc, và đông bắc. "Khi chúng tôi nã phát súng đầu tiên, quân địch mới biết có xe tăng tấn công và do quá bất ngờ nên không kịp trở tay. Chúng tôi nhanh chóng làm chủ tình hình" - ông Tấu nhớ lại.

Trên hướng nam, phân đội mở đường dưới sự chỉ huy trực tiếp của Tham mưu trưởng Tiểu đoàn 3, tiến lên dùng bộc phá phá rào mở đường vào căn cứ. Lúc 23 giờ 25 phút, cửa mở thông, hiệu lệnh xung phong phát ra, đại đội 9 bộ binh phối hợp với xe tăng 573 và 565 tiến vào đánh khu vực đầu cầu. Bị bắn trả, hai xe tăng 573 và 565 đều bị hư hại, song 2 xe tăng tiếp tục nổ súng diệt lô cốt hỏa điểm địch, yểm hộ đắc lực cho bộ binh phát triển.

Một chiếc PT-76 của Quân đội Bắc Việt Nam (QĐNDVN), cùng loại do quân Bắc Việt thực hiện trong trận chiến tại Làng Vây, được trưng bày như một tượng đài kỷ niệm chiến thắng.

Cũng thời gian đó, trên hướng tây, Tiểu đoàn 5 (Trung đoàn 24) cùng xe tăng đã mở cửa đánh vào các điểm cao 230, 320, diệt gọn các đại đội biệt kích 102, 103, sau đó tiến vào hiệp đồng với Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 101) tiêu diệt sở chỉ huy địch ở trung tâm căn cứ. Đến 1 giờ 5 phút ngày 7 tháng 2, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chiếm được khu trung tâm.Đến 1 giờ 5 phút ngày 7 tháng 2, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chiếm được khu trung tâm. Quân Mĩ và đồng minh cố chống cự bằng súng chống tăng M-72, nhưng đa số hơn 100 quả đạn hoặc bắn trượt, hoặc văng ra khi gặp vỏ giáp nghiêng của xe PT-76. Vũ khí hiệu quả nhất là 2 khẩu pháo không giật 106,7mm thì chỉ kịp bắn hạ được 2 xe PT-76 trước khi bị các xe tăng khác phá hủy hoàn toàn.Từ 3 giờ 30 phút ngày 7 tháng 2, Quân Giải phóng đã chiếm xong hầu hết các khu vực và bắt đầu tổ chức truy quét quân địch ở các hầm ngầm, công sự. Đến 10 giờ cùng ngày, lá cờ của Quân Giải phóng đã tung bay ở cứ điểm Làng Vây.

Xe tăng PT-76 của Quân Giải phóng xuất hiện đã gây bất ngờ lớn, thậm chí là gây sốc cho đối phương. Được xe tăng PT-76 che chắn, các đợt tấn công đột phá của bộ binh Quân Giải phóng diễn ra hết sức nhanh chóng với thương vong thấp hơn hẳn. Trong trận đánh này, phần lớn lực lượng quân Hoa Kỳ và đồng minh đã bị tiêu diệt hoặc bắt sống. Chỉ có một số ít lính Mỹ kịp chạy thoát được tới Khe Sanh dưới sự yểm trợ của không quân[110].

Cuộc hành quân Lam Sơn 719

Chiến dịch Lam Sơn 719 hay Cuộc Hành quân Hạ Lào (cách gọi của Việt Nam Cộng hòa) hay Chiến dịch đường 9 - Nam Lào (cách gọi của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam) là một chiến dịch trong Chiến tranh Việt Nam, do Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH) thực hiện với sự yểm trợ của không quân và pháo binh Mỹ. Mục tiêu của chiến dịch là phá vỡ hệ thống hậu cần của Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam (QGP) tại Lào và cắt đứt Đường mòn Hồ Chí Minh tại thị trấn Tchepone (Xê-pôn) nằm cách biên giới Việt-Lào 42 km về phía Tây.

Thực hiện chiến dịch, QLVNCH huy động 4 trung đoàn và 2 chi đoàn thiết giáp: trung đoàn 17, 11, 7, 4 (trang bị xe tăng M41), Quân đội Mỹ huy động 4 tiểu đoàn thuộc sư đoàn 5 bộ binh cơ giới, Trong quá trình chiến dịch, do tổn thất cao nên Mỹ tiếp tục bổ sung lực lượng. Khi cao nhất - ngày 10/3/1971, quân Mỹ điều động 5 tiểu đoàn thiết giáp (tăng hơn dự kiến 1 tiểu đoàn). Theo Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, tổng lực lượng Mỹ-VNCH trên địa bàn chiến dịch lúc cao nhất có 3 thiết đoàn thiết giáp trang bị gồm 578 xe tăng, xe bọc thép.[111]

QGPMNVN có ba tiểu đoàn tăng, thiết giáp: 297, 397, 198, với 88 xe tăng (Tiểu đoàn 397 trang bị 33 xe T-34/85, Tiểu đoàn 297 trang bị 33 xe T-54, Tiểu đoàn 198 trang bị 22 xe tăng lội nước PT-76).

Theo sử liệu của Nam Việt Nam, trong trận đánh đầu tiên, Bắc Việt mất 6 chiếc T-54 và 16 PT-76, M41 của Nam Việt Nam không có tổn thất nào. Sau đó, trong một trận chiến khác, 3 chiếc T-54 và 12 chiếc PT-76 bị tiêu diệt cùng với việc mất 3 xe bọc thép chở quân. Trong cuộc tấn công thứ ba của Bắc Việt Nam, quân Nam Việt Nam đã phá hủy 15 xe tăng (không nêu rõ loại), mất 6 xe bọc thép chở quân. Các trung đội lân cận của Nam Việt Nam mất 5 chiếc M41 và 25 chiếc thiết giáp chở quân M113. Hai phần ba số xe tăng của Bắc Việt bị máy bay phá hủy. Sau những trận chiến này, quân miền Nam Việt Nam bắt đầu một cuộc rút lui có hệ thống đã biến thành một cuộc giẫm đạp. Một máy bay trinh sát của Mỹ sau đó đã nhìn thấy một đoàn dài gồm 43 xe tăng M41 và 80 xe bọc thép chở quân M113 bị bỏ rơi. Tổng cộng, VNCH mất 54 xe tăng M41, 87 xe thiết giáp chở quân M113, 96 khẩu pháo, 211 xe tải và 37 xe ủi đất. Chính Bắc Việt đã mất 88 xe tăng bị hạ gục, trong đó có một số xe T-54 và 13 khẩu pháo.[112] Đây là trận chiến đầu tiên quân Nam Việt Nam đụng độ với T-54, kết quả là Lữ đoàn Thiết giáp số 1 QLVNCH bị tiêu diệt hoàn toàn. Nhận thấy M41 không đủ sức chống chọi với xe tăng T-54, người Mỹ bắt đầu trang bị lại cho quân miền Nam Việt Nam các xe tăng hạng trung M48.[113]

Chiến dịch Nguyễn Huệ

Để thực hiện chiến dịch, tại mặt trận Đông Nam Bộ QĐNDVN có 2 tiểu đoàn tăng trang bị chủ yếu các xe T-54, Type 59. Ngoài ra còn có 56 xe PT-76[114] và vài chục xe T-34-85,

Vào mùa xuân năm 1972, Bắc Việt Nam phát động cuộc Tổng tấn công Phục sinh. Cuộc tấn công có sự tham gia của khoảng 322 xe tăng Bắc Việt[115]. Ước tính của tình báo Mỹ về nguyên tắc trùng khớp với con số thực, theo số liệu của họ, Bắc Việt Nam trước khi bắt đầu cuộc tấn công có từ 330 đến 370 xe tăng[116]. Phía Nam Việt Nam sở hữu 550 xe tăng và 900 xe bọc thép chở quân.[117]

Sư đoàn 3 Bộ binh Nam Việt Nam ra đòn đầu tiên và gần như bị tiêu diệt hoàn toàn, mất gần hết xe tăng và thiết giáp chở quân. Lần đầu tiên, Bắc Việt thu phục được pháo tự hành hạng nặng 175 mm M107.

Trong các trận đánh chiếm thành phố Quảng Trị, lính tăng Nam Việt Nam đã phát triển các chiến thuật để chống lại thiết giáp của Bắc Việt - từ khoảng cách xa, từ các cuộc phục kích, bắn xe tăng của Bắc Việt. Vì vậy, theo sử liệu của Nam Việt Nam, vào ngày 2 tháng 4 năm 1972, xe tăng M48 "Patton" từ 3 cây số đã nổ súng vào đoàn xe của Bắc Việt Nam. Chín xe tăng hạng nhẹ PT-76 và hai xe tăng hạng trung T-54 bị phá hủy. Các xe tăng còn lại của Bắc Việt rút lui. Điều đáng chú ý là theo Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ, hỏa lực bắn ra không phải từ 3 cây số, mà ở khoảng cách 2 đến 2,5 km, và 7 xe tăng Bắc Việt đã bị tiêu diệt (không phải 11 chiếc).[118]

xe tăng Type 59 bị Trung đoàn thiết giáp 20 QLVNCH chiếm giữ

Vào ngày 9 tháng 4, trong trận chiến giành Pedro trước Kuanchi, lính tăng Nam Việt Nam thông báo rằng 17 chiếc T-54 đã bị hỏa lực của xe tăng M48 tiêu diệt và bắt sống, trong khi bản thân họ không bị tổn thất gì[119]. Điều đáng chú ý là các tuyên bố chính thức của Hải quân Hoa Kỳ đã mô tả trận chiến này theo cách khác. Vì vậy, theo TQLC Hoa Kỳ, Bắc Việt chỉ có 16 chiến xa, trong đó có 13 chiếc T-54 bị tiêu diệt chứ không phải 16 chiếc, và 2 chiếc bị bắt chứ không phải 1. Tổng cộng là 16 chiếc thiệt hại. Đồng thời, tổn thất không chỉ từ hỏa lực M48 mà còn do mìn (ít nhất 1 chiếc T-54), máy bay cường kích A-1 và vũ khí chống tăng cầm tay.[120]

Vào ngày 7 tháng 4, Bắc Việt chiếm được thành phố Lộc Ninh với sự yểm trợ các phương tiện thiết giáp, đánh bại thiết giáp của Nam Việt Nam đóng tại đó. Trong trận chiến, 38 xe tăng M41 và thiết giáp chở quân M113 bị tiêu diệt và bắt sống, 8 SPG cũng bị phá hủy. Tổn thất trong trận chiến là 2 xe tăng T-54 và 1 PT-76[121]

Vào ngày 13 tháng 4, Bắc Việt bắt đầu cuộc tấn công vào thành phố An Lộc của miền Nam Việt Nam. Cuộc tấn công được yểm trợ bởi 48 xe tăng các loại, trong đó có 17 xe tăng Nam Việt Nam bị bắt trước đó (sau đó, Bắc Việt đưa thêm vài chục xe tăng vào trận chiến, tăng nhóm này lên khoảng 100 xe tăng). Chỉ có thể giữ thành phố với sự hỗ trợ của không quân. Đối đối phó với những người Bắc Việt đang tiến quân, mọi phương tiện có thể bay đều huy động: từ máy bay ném bom chiến lược B-52 đến trực thăng AN-1 "Hugh Cobra" mới nhất. Hàng không đã tìm cách cắt đứt bộ binh khỏi xe tăng, và trên các đường phố của thành phố, T-54T-34 trở thành mồi ngon cho súng phóng lựu M72 LAW... Trong ba ngày chiến đấu, 23 xe tăng bị tiêu diệt, chủ yếu là T-54. Tổng thiệt hại của Bắc Việt trong báo cáo là 80 xe tăng. Tổn thất của thiết giáp Nam Việt Nam trong trận chiến lên tới hơn 30 xe tăng, 50 xe bọc thép và một số pháo tự hành. Trong trận chiến này, đã xảy ra một sự cố thương tâm khi một chiếc T-54, đột nhập vào trung tâm thành phố, nổ súng vào Nhà thờ Công giáo, giết chết hơn 100 thường dân. Thành phố không bao giờ bị chiếm.[122][123]

Vào ngày 27 tháng 4, tuyến phòng thủ kiên cố của quân Nam Việt Nam thất thủ dọc theo sông Cửa Việt, mà quân Bắc Việt không thể chiếm được kể từ ngày 2 tháng 4. Hơn nữa, họ thậm chí không cần phải tấn công nó, quân miền Nam đã bỏ chạy khi nhìn thấy xe tăng M48 của trung đoàn thiết giáp 20 của họ.

Vào cuối tháng 4 năm 1972, 18 xe tăng T-54 của Trung đoàn 203 Bắc Việt, theo hai hướng, tấn công thành phố Tân Chánh. Khu vực này được phòng thủ bởi Sư đoàn Bộ binh 22 và hai Trung đoàn Thiết giáp M41. Xe T-54 đầu tiên tấn công cổng chính. Nhìn thấy xe tăng đang tiến tới, 900 binh sĩ Nam Việt Nam hoảng sợ bỏ chạy. Một chiếc T-54 mang số hiệu 377 lao thẳng vào nhóm 7 xe tăng M41 của Nam Việt Nam đang di chuyển, liên tiếp tiêu diệt từng cái một. Sau đó, chiếc xe này này đã bị hạ gục bởi một khẩu súng phóng lựu. Ở phía tây thành phố, các khẩu súng phóng lựu của Nam Việt Nam đã tiêu diệt thêm hai chiếc T-54, nhưng chúng không ngăn được cuộc tấn công. Các tuyến phòng thủ nhanh chóng bị phá vỡ, chỉ có một số lính Nam Việt NamMỹ có thể thoát ra khỏi thành phố. Kết quả của cuộc bao vây, toàn bộ sư đoàn 22 Nam Việt Nam bị tiêu diệt, 14 chiến xa M41 và vài chục khẩu pháo bị mất, có trường hợp lính tăng Nam Việt Nam nhìn thấy T-54 đã bỏ M41 bỏ chạy.

Bắc Việt trên hướng tấn công sân bay Đắc Tô, đã bị chiếc AC-130 của Mỹ tấn công, tổn thất ít nhất 7 chiếc T-54.

Ngày 24 tháng 4, bốn chiếc T-54 của Bắc Việt, được lệnh chuyển hướng tấn công sân bay Đắc Tô 2. Một con đường bí mật trong núi và rừng rậm được sử dụng để chuẩn bị hành quân. Vào ban đêm, hai chiếc T-54 đột nhập vào sân bay. Chiếc xe tăng thứ nhất chặn lối ra Bến Hét, chiếc thứ hai đứng giữa sân bay và bắt đầu công phá các boongke của trung đoàn 47 một cách bài bản. Hai xe tăng M41, bảo vệ sân bay, tiếp cận từ bên sườn và bắn sáu phát về phía T-54 mà không có tác dụng. Xe tăng của Bắc Việt nhanh quay pháo của họ và phá hủy cả xe tăng của QLVNCH. Trực thăng "Cobra" bay đến chi viện cho phi trường bị bao vây cũng không ngăn được T-54 - tên lửa 70 mm không gây thiệt hại cho xe tăng. Theo kết quả của hai đợt tấn công lớn, quân đội Bắc Việt đã giải phóng 20 dặm từ Kontum.[124][125][126]

Ngày 2 tháng 5, Trung đoàn 20 Thiết giáp của Nam Việt Nam bị tiêu diệt hoàn toàn.

Vào cuối tháng 5, Bắc Việt mở cuộc tấn công lớn cuối cùng, được hỗ trợ bởi 30 xe tăng trong khu vực tỉnh Kontum. Cuộc tấn công đã bị đẩy lui.[127]

Trận đánh xe tăng lớn nhất được biết đến trong cuộc chiến có sự tham gia của T-34 xảy ra vào ngày 27 tháng 7 trong trận Đồi 26 ở phía trước Quảng Trị. Một đại đội 11 chiếc M41 rút lui từ điểm cao thì bị đại đội 7 xe tăng T-34-85 (trong số 10 xe tăng tham gia) tấn công. Kết quả là quân miền Nam Việt Nam đã bị bất ngờ, theo số liệu của Mỹ thì 3 chiếc M41 đã bị phá hủy bởi hỏa lực của xe tăng, 5 chiếc nữa bị hạ bởi lí do khác, chỉ có 3 chiếc M41 chạy thoát được.[128]

Trong toàn bộ cuộc Tổng tấn công Phục sinh năm 1972, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã mất 250 xe tăng, trong đó có 134 xe tăng T-54,[129] từ 40[130] đến 60[131] xe T-34-85. Nhà sử học người Mỹ James Moore đã đếm "hơn 700 xe tăng Bắc Việt bị phá hủy",[132] con số này cao gấp nhiều lần số xe tăng của Bắc Việt.[115] Nam Việt Nam mất khoảng một nửa số xe tăng.

Trận Cửa Việt

Cửa Việt là một quân cảng chiến lược trên địa phận huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị, là một đầu mối giao thông đường thủy quan trọng, có ý nghĩa lớn đối với cả hai bên. Từ sau chiến cục năm 1972, Cảng Cửa Việt nằm dưới sự kiểm soát của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Thực hiện mục tiêu tái chiếm vị trí trọng yếu này, tháng 1 năm 1973, QLVNCH mở Chiến dịch Tango City nhằm đánh chiếm Cửa Việt trước khi Hiệp định Paris có hiệu lực vào 8 giờ sáng ngày 28 tháng 1 năm 1973. Ý đồ của QLVNCH là cắt đứt sự chi viện to bằng đường biển từ hậu phương ra tiền tuyến cho Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, trực tiếp là chi viện cho chiến trường Trị-Thiên, bịt cửa khẩu của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra với quốc tế bằng đường biển, đồng thời thiết lập được một đầu cầu quan trọng để tiếp vận cho các cuộc hành quân nhằm vào các vùng do Quân Giải phóng kiểm soát.[8] Việc Quân lực VNCH tấn công căn cứ Cửa Việt của Quân Giải phóng đã bị Uỷ ban Quốc tế về kiểm soát ngừng bắn ở Việt Nam xác định là hành vi vi phạm Hiệp định Paris.[133]

Để phục vụ Chiến dịch Tango City, VNCH huy động các thiết đoàn 17, 18 và 20.[134] Quân Giải phóng chỉ có Đại đội tăng thiết giáp 1 gồm 7 xe: 1 xe tăng Type-63 (số hiệu 704), 2 xe thiết giáp K-63 (có trang bị 2 bệ phóng tên lửa chống tăng B-72), 4 xe thiết giáp BTR-50 lắp cao xạ 23mm. Về sau đại đội 1 được chi viện thêm 1 xe tăng T-54 của Trung đoàn 203

7 giờ sáng ngày 28 tháng 1, QLVNCH bắt đầu tiến quân dọc bờ biển hướng về Cửa Việt, Lực lượng đặc nhiệm được gần 100 xe tăng, xe bọc thép chi viện mở liên tiếp 4 lần tấn công vào Thanh Hội. Trước sức kháng cự mạnh của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, đến chiều họ mới chiếm được Thanh Hội và một phần làng Vĩnh Hoà. Trong khi đó Lữ đoàn 147 TQLC được khoảng 40 xe tăng chi viện đánh vào Long Quang, An Trạch, chiếm được một phần trận địa nhưng ngay đêm đó Trung đoàn 48 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã phản kích chiếm lại. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày thì QLVNCH đã tiến được nửa đường, và một số đơn vị của họ đã bị tổn thất khá nặng, khoảng trên dưới 20 xe tăngxe thiết giáp bị hư hại.

Bị thiệt hại lớn nhưng do mệnh lệnh phải chiếm Cửa Việt trước giờ ngừng bắn, QLVNCH vẫn điều thêm quân, tăng thêm xe pháo cho Sư đoàn TQLC tiếp tục tấn công. QLVNCH thay đổi cách đánh, không đột phá chính diện mà lợi dụng ban đêm luồn qua khe hở giữa các trận địa phòng ngự của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tiến ra Cửa Việt. 23 giờ 30 phút ngày 27 tháng 1, lợi dụng lúc gió to, sóng lớn, nước thủy triều xuống, Lực lượng đặc nhiệm Tango bí mật tiến theo mép nước ra Cửa Việt. Do tập trung vào tuyến phòng thủ chính phía trong đất liền nên quân Giải phóng bị bất ngờ, đến 1 giờ 30 phút ngày 28 tháng 1 họ mới phát hiện được quân địch. Bộ binh Trung đoàn 101 quân Giải phóng và 6 xe tăng, xe bọc thép đánh vào đội hình QLVNCH ở đông Hà Tây và Vĩnh Hòa. Trong bóng đêm, Đại đội tăng thiết giáp 1 gồm 1 xe tăng lội nước K63-85 và 3 xe thiết giáp K63; cùng Đại đội Pháo cao xạ tự hành gồm 2 xe thiết giáp BTR-50 lắp pháo cao xạ 2 nòng 23mm, do chuẩn úy Mai Xuân Chính chỉ huy, đã xuất kích 4 lần, bắn cháy 16 xe tăng, xe thiết giáp của đối phương, nhưng vẫn không ngăn được QLVNCH tiến về cảng đánh vào các chốt của quân Giải phóng ở Hà Tây, Cửa Việt, Cao điểm 12. Phía Quân Giải phóng bị bắn cháy 1 xe tăng K63-85 và 4 xe thiết giáp trong trận này.

Quân Giải phóng nhận lệnh phải đẩy bằng được quân địch ra khỏi cảng Mỹ, trước giờ Hiệp định Paris có hiệu lực. Thêm hai xe BTR-50 cao xạ tự hành được bổ sung sang bờ Nam chặn đối phương. 7 giờ 30 ngày 28/01, Quân Giải phóng phản công. 5 xe thiết giáp chở theo bộ binh của Trung đoàn 101, chia thành 2 mũi, một mũi từ trong cảng đánh ra, một mũi đánh vào sườn đối phương có sự phối hợp của lực lượng bộ binh phòng ngự tại chỗ. Xe tăng, thiết giáp cùng binh lính QLVNCH phải lùi lại thiết lập đội hình phòng ngự, cách cảng Mỹ khoảng 500-700 mét về phía Nam.

Đúng 7 giờ 58 phút sáng ngày 28 tháng 1, hai phút trước khi hiệp định ngừng bắn có hiệu lực thì mũi nhọn đột kích với khoảng 300 lính TQLC được 3 chiến xa M48 Patton yểm trợ vẫn chưa vào được Cảng Cửa Việt. Lúc này, thế trận của QLVNCH hình thành 3 cụm quân: Cụm 1 có 1 đại đội và 20 xe tăngxe thiết giáp M-113 ở cách Cảng Mỹ (về phía nam) khoảng 700 m. Cụm 2 khoảng 1 đại đội và 10 xe tăng ở đông thôn Hà Tây cách cảng Cửa Việt khoảng 1.500 m. Cụm 3 có hai trung đội và 8 xe tăng cách Cao điểm 4 khoảng 200 m về phía đông bắc. Sau khi hiệp định ngừng bắn có hiệu lực vào lúc 8 giờ, QLVNCH lấn tiếp ra phía nam Cao điểm 4 (cách khoảng 600 m) tạo thành một cụm quân nữa, gồm hai trung đội cùng 12 xe tăng và xe M-113.

12 giờ ngày 30 tháng 1, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam mở đợt phản công đầu tiên nhưng không thành do nổ súng không đồng loạt. Ngày 31 tháng 1, Quân Giải phóng tiếp tục tập trung 5 tiểu đoàn của bộ phận chủ lực có một số xe tăng, xe bọc thép đồng loạt tiến công vào các cụm quân địch ở phía nam cảng. Các trận địa pháo chiến dịch, các trận địa pháo chống tăng ở bờ bắc bao gồm ĐKZ-75, pháo 85 mm, cùng tên lửa chống tăng B72 của các đội hỏa khí chống tăng đi cùng bắn mãnh liệt vào các vị trí của QLVNCH. Bị bao vây tấn công từ cả ba mặt và không được chi viện đầy đủ, các đơn vị TQLC và thiết giáp VNCH phải mở đường máu rút trở về vị trí xuất phát. Đến 10 giờ 30 phút ngày 31 tháng 1, quân Giải phóng đã kiểm soát hoàn toàn khu vực từ cảng Cửa Việt đến Vĩnh Hòa, tuyến chốt từ Thanh Hội đến Long Quang, Chợ Sải được khôi phục. Về phía VNCH, riêng lực lượng thiết giáp đã bị thiệt hại tới trên 2/3 số xe tham chiến (29 xe bọc thép: 18 xe bị phá hủy, 6 xe tăng và 5 xe bọc thép chở quân bị bỏ lại trong thứ tự tốt)

QGPMNVN tuyên bố đã phá hỏng 113 xe tăng, xe bọc thép, thu 13 chiếc. Riêng đại đội 1 đã bắn cháy 16 xe tăng - xe thiết giáp của đối phương, yểm trợ bộ binh thu giữ 3 xe tăng M48 Patton, 3 xe tăng M41 Walker Bulldog và 5 xe M-113. Phía Đại đội 1 bị bắn cháy 6 xe (1 xe tăng Type-63 và 5 xe thiết giáp). Ngày 23/9/1973, Đại đội 1 được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân[135]. Đặc biệt trường hợp Kíp xe Type-63 số hiệu 704 trong đêm tối đã bất ngờ xuất kích đánh vào sườn đội hình đối phương, với 8 phát đạn đã bắn cháy 5 xe tăng M48 Patton và bắn hỏng 2 xe tăng M48 khác, đồng thời tiêu diệt hàng chục bộ binh. Đến rạng sáng, xe tăng 704 bị trúng đạn pháo của địch, Đại đội trưởng Nguyễn Văn Khoán và nạp đạn viên Nguyễn Văn Khanh hy sinh, pháo thủ Hoa Xuân Toàn và lái xe Nguyễn Thế Tường bị thương nặng.Đây là trường hợp duy nhất được biết đến về một lính tăng ace trên dòng biến thể của xe tăng PT-76.[136]

Chiến dịch Tây Nguyên

Chiến dịch Tây Nguyên (từ 4 tháng 3 đến 3 tháng 4 năm 1975), mật danh Chiến dịch 275, là chiến dịch mở đầu cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 do Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phát động tấn công. Để hỗ trợ lực lượng bộ binh tiến công, QGPMNVN đã điều động trung đoàn tăng thiết giáp 273 tham chiến. Bên phía QLVNCH duyên hải Trung-Nam Trung bộ có 1 thiết đoàn và 8 chi đội tổng cộng 117 xe, Vùng cao nguyên có 4 thiết đoàn với 371 xe.

Theo đại tá Phạm Bá Hoa, tham mưu trưởng Tổng cục tiếp vận QLVNCH, các lực lượng này được bố trí theo thế "nặng đầu nhẹ đuôi" trên địa bàn Cao nguyên trung phần.[137] 3 thiết đoàn xe tăng đóng quanh khu vực Kon Tum - Pleiku và chốt giữ đường 19 đi An Khê (Bình Định); 1 chi đoàn thiết giáp (thuộc thiết đoàn 8) giữ Quảng Đức. Tại Buôn Ma Thuột chỉ có thiết đoàn 8 (thiếu) và một chi đội thiết giáp. Lực lượng này được trang bị 116 xe tăng M-41 và M48, 50 xe bọc thép M-113.[138][139]

Trên toàn mặt trận Tây Nguyên, so với lực lượng QLVNCH, lực lượng bộ binh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam kém hơn đáng kể về hỏa lực hạng nặng (xe tăng, xe thiết giáp, pháo cỡ lớn và máy bay). Nhưng do Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tập trung chủ lực tại cánh Nam trong khi phần lớn QLVNCH kéo về phòng thủ tại cánh Bắc (do bị mắc bẫy nghi binh của đối phương), nên tại điểm quyết chiến Buôn Ma Thuột vào giờ khai hỏa, ưu thế của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam so với QLVNCH tại đây có tỉ lệ áp đảo: bộ binh 5:1, thiết giáp 2:1, pháo lớn 2:1[140]. Ưu thế này bảo đảm cho Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam khả năng thắng lợi nhanh chóng do đối phương khó có khả năng cầm cự lâu dài chờ quân phản kích ứng cứu.

Các hoạt động nghi binh của Quân Giải phóng đã bắt đầu từ tháng 12 năm 1974, khi trận Phước Long chuẩn bị mở màn. Một số xe tăng (cũ), xe xích kéo pháo, xe vận tải được tổ chức cơ động liên tục suốt ngày đêm quanh phòng tuyến. Hai bến phà (gỗ) được triển khai tại cầu Diên Bình và sông Đakbla cho xe đi qua. Trung đoàn 95 QGP hoạt động mạnh ở đường 19 Đông, chặn đánh các đoàn xe quân sự và tập kích một số chốt của QLVNCH.

Chiến dịch Tây Nguyên chính thức bắt đầu đêm 3 rạng ngày 4 tháng 3 với trận đánh của bộ binh Trung đoàn 95A diệt căn cứ Ayun do 1 tiểu đoàn bảo an chiếm hữu và một số điểm chốt giao thông nhỏ của QLVNCH trên 20 km đường 19 từ ngã ba Pleibon đến ấp Phú Yên (Tây An Khê) ở.

Ngày 5 tháng 3, đại tá Quang đích thân chỉ huy 1 tiểu đoàn của trung đoàn 53 cùng 14 xe hành quân vè Buôn Ma Thuột thì bị trung đoàn 9, sư đoàn 320 phục kích tại Thuần Mẫn. 8 xe bị bắn cháy, 2 pháo 105 mm bị đối phương chiếm được[141]. 7 xe còn lại phải quay về Pleiku. Đại tá Quang phải trở về Buôn Ma Thuột bằng trực thăng.

11 giờ trưa ngày 9 tháng 3, thiếu tướng Phạm Văn Phú từ Nha Trang bay lên sân bay Buôn Ma Thuột và triệu tập cuộc họp với chuẩn tướng Lê Trung Tường, đại tá Vũ Thế Quang và đại tá Nguyễn Trọng Luật để đánh giá tình hình. Theo tướng Phú: tình hình Đức Lập quá xấu, không còn khả năng cứu vãn nên không tăng thêm viện binh, rút liên đoàn 21 biệt động quân từ Buôn Hồ về bảo vệ phía Bắc thị xã; tiểu đoàn 2, trung đoàn 53 phải cố giữ ngã ba Đắc Sắc, chờ thời cơ phản kích lấy lại Đức Lập; tăng viện một chi đoàn thiết giáp cho thị xã và rút 2 tiểu đoàn bảo an ở Bản Đôn về phòng thủ ngoại vi thị xã. Đại tá Vũ Thế Quang được bổ nhiệm làm tư lệnh các lực lượng phòng thủ Buôn Ma Thuột. Cho đến lúc đó, tướng Phú vẫn một mực cho rằng: Cộng sản đánh Quảng Đức, uy hiếp Buôn Ma Thuột là để nghi binh và vài ngày tới, họ sẽ tập trung tấn kích mạnh vào Pleiku - Kon Tum. 6 giờ chiều ngày 9 tháng 3, tướng Phú về đến Pleiku và ra lệnh cấm trại 100%[142]. Ngay cả đến khi Buôn Ma Thuột bị tấn công, tướng Phú và cả Bộ Tư lệnh Quân đoàn II cũng chưa biết rằng cuộc tấn công này được thực hiện chủ yếu bởi sư đoàn 316 đã bí mật hành quân xuống Nam Tây Nguyên theo sau sư đoàn 320A, dùng sư đoàn 320A làm bình phong che giấu sự có mặt của mình. Lợi dụng việc các đơn vị chủ lực của QLVNCH tại Buôn Ma Thuột tập trung giải tỏa đường 14 trên hướng Thuần Mẫn - Buôn Hồ, các trung đoàn công binh 7 và 575 (QGP) đã mở thông các con đường 50B, 50C, 50D, 51, 57B, 57C bảo đảm cho xe pháo các loại có thể kéo thẳng vào Buôn Ma Thuột. Riêng đường 20C ở Tây Nam Buôn Ma Thuột nằm trên hướng đột kích của trung đoàn xe tăng 273 được mở một cách độc đáo. Các cây lớn chỉ được cưa 3/4 gần gốc. Khi xe tăng xuất kích, có thể húc đổ cây tự mở đường trong hành tiến. Vì vậy, trinh sát đường không của QLVNCH không phát hiện được sự có mặt của trung đoàn xe tăng 273 tại đây. Việc chỉ huy tác chiến được thực hiện hoàn toàn bằng thông tin hữu tuyến đã vô hiệu hóa các hoạt động trinh sát điện đài của QLVNCH.[143]. Các đơn vị chủ lực của QLVNCH tại Quân khu II đã bị căng kéo ra nhiều hướng và chôn chân tại các cứ điểm phòng thủ, giảm thiểu khả năng cơ động ứng cứu cho nhau. Thế trận xung quanh Buôn Ma Thuột đã được cài đặt.[144]

Buôn Ma Thuột nằm ở giữa ngã ba của hai con đường chiến lược 14 và 21, là chốt giữ giao thông của Nam Tây Nguyên. Từ Buôn Ma Thuột dễ dàng đi lên các tỉnh phía Bắc và đi xuống Đông Nam Bộ-Sài Gòn bằng cả đường không và đường bộ. Chính về tầm quan trọng đó nên Buôn Ma Thuột có các căn cứ, sân bay, kho đạn hậu phương của các đơn vị chủ lực của Quân khu 2; Quân đoàn 2 VNCH, được bảo vệ bởi các đơn vị khá tinh nhuệ gồm 1 Trung đoàn bộ binh, Trung đoàn 232 pháo binh và 2 Tiểu đoàn pháo binh, Trung đoàn 8 thiết giáp, cùng với lực lượng bảo an, cảnh sát, mật vụ… với tổng quân số hơn 8.000 lính. Tuy nhiên, do QLVNCH chỉ lo bố trí lực lượng để đối phó ở phía Bắc, còn lực lượng bảo vệ Buôn Ma Thuột tuy đông nhưng khả năng chiến đấu khá thấp do lơi lỏng phòng bị.

2 giờ sáng 10 tháng 3 năm 1975, cuộc tiến công của Quân Giải phóng vào Buôn Ma Thuột bắt đầu với các trận đột kích sâu của trung đoàn 198 đặc công vào các mục tiêu: Sân bay Hòa Bình, khu kho Mai Hắc Đế, khu hậu cứ của trung đoàn 53 (QLVNCH) với sự yểm hộ của hỏa tiễn tầm ngắn ĐKB và H-12. Hướng Tây Nam, trung đoàn 174 có 1 đại đội xe tăng yểm hộ vượt qua các chốt Chi Lăng, Chư Di và khu kho Mai Hắc Đế. Hướng Tây Bắc, trung đoàn 148 có 1 đại đội xe tăng mở đường đánh vào Sở chỉ huy tiểu khu Đắc Lắc và dùng 1 tiểu đoàn tấn công ấp Châu Sơn. Hướng Tây, có tiểu đoàn 4 (trung đoàn 24 sư đoàn 10) và 2 đại đội xe tăng đánh vào Sở chỉ huy sư đoàn 23 và mặc dù xe tăng bị sa lầy và bị máy bay QLVNCH bắn phá song họ vẫn tấn công vào khu quân y, khu truyền tin [145]. Hướng Đông Bắc có trung đoàn 95B đánh vào khu vực ngã sáu, hướng Đông Nam, trung đoàn 149 (không có xe tăng đi kèm) dùng một tiểu đoàn tấn công cứ điểm Chư Blom và điểm cao 582, 1 tiểu đoàn còn lại đánh thốc qua cứ điểm Ba Lê và điểm cao 491 tiến thẳng vào trung tâm thị xã. Phía Đông thị xã, trung đoàn 3 (sư đoàn 10) có 1 đại đội xe tăng yểm hộ phối hợp với 1 tiểu đoàn của trung đoàn 149 (sư 316) tấn công đánh chiếm sân bay Hòa Bình từ hai hướng Đông Bắc và Tây Nam khép lại. Trung đoàn 2 (sư đoàn 10) đánh chiếm cứ điểm Phước An.[146]

Tượng đài xe tăng kỷ niệm chiến thắng Buôn Ma Thuật tại Đắk Lắk

Từ hầm chỉ huy của sư đoàn 23, đại tá Nguyễn Trọng Luật điều 2 chi đội thiết giáp M-113 ra giữ Ngã Sáu nhưng đã bị các xe tăng của đại đội 5, tiểu đoàn 3, trung đoàn xe tăng 273 đẩy lùi.[147]

Đêm 10 tháng 3, chiến sự tạm lắng. Các đơn vị QLVNCH còn lại trong thị xã co cụm trong các cứ điểm còn giữ được như Sở chỉ huy sư đoàn 23, khu nhà ga sân bay Hòa Bình, đài phát thanh. Đại tá Vũ Thế Quang điện cho chuẩn tướng Lê Trung Tường xin tiếp ứng nhưng chỉ nhận được câu trả lời: "Bộ chỉ huy đang bận đối phó trên hướng Pleiku-Kon Tum. Đại tá ráng giữ vững. Cộng quân có đánh lớn thì cũng chỉ được vài ngày rồi rút như hồi Mậu Thân".[148] Sáng 11 tháng 3, các đơn vị Quân Giải phóng tiếp tục tấn công trong làn mưa bom từ các máy bay A-37 của không quân VNCH trút xuống thị xã. Lúc 7 giờ 55, một tốp A-37 trong khi ném bom ngăn chặn 10 xe tăng của Quân Giải phóng đã đánh hai quả bom trúng hầm chỉ huy và truyền tin Sở chỉ huy sư đoàn 23. Bộ tư lệnh quân đoàn II QLVNCH mất liên lạc hoàn toàn với Bộ tư lệnh sư đoàn 23 kể từ giờ phút đó[149][150].

Ngày 17 tháng 3, Bộ Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên QGPMNVN điều tiếp tiểu đoàn xe tăng còn lại của trung đoàn 273 tăng cường cho trung đoàn 24 tấn công Phước An. Trong ngày 17 tháng 3, trung đoàn 44 VNCH bị tấn công liên tục tan rã tại Phước An. Đại tá Đức (tư lệnh mới của sư đoàn 23) đưa sở chỉ huy nhẹ sư đoàn và hơn 700 quân còn lại về Chư Cúc. Ngay lập tức, họ bị trung đoàn 28 (sư đoàn 10) và 1 tiểu đoàn của trung đoàn xe tăng 273 QGP truy kích, phải bỏ Chư Cúc chạy về Pleiku.[151]. Trận phản kích của QLVNCH với ý định tái chiếm Buôn Ma Thuột thất bại.

Khi trận Buôn Ma Thuột và chiến sự ở Tây Nguyên đang diễn ra thì QLVNCH tại Quân khu I cũng đang phải đối phó với các hoạt động của các sư đoàn 324, 325 QGP tại Trị Thiên Huế. Nhiều đơn vị cấp tiểu đoàn của Quân Giải phóng đã xâm nhập xuống đồng bằng. Ngày 11 tháng 3, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã họp với các thủ tướng Trần Thiện Khiêm, đại tướng tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên và trung tướng Đặng Văn Quang để bàn về việc tái phối trí lại lực lượng. Tại cuộc họp này, Nguyễn Văn Thiệu thông báo quyết định của ông: "Với khả năng và lực lượng ta đang có, chắc chắn chúng ta không thể bảo vệ được tất cả lãnh thổ muốn bảo vệ. Như vậy chúng ta nên tái phối trí lực lượng và bảo vệ những vùng đông dân, trù phú, vì những vùng đất đó mới thực sự quan trọng"[152]. 11 giờ trưa 14 tháng 3, tại Cam Ranh diễn ra một cuộc họp mà sau này, nhiều nhà bình luận quân sự cho rằng nó là một trong những nguyên nhân gây ra một thảm họa quân sự lớn nhất trong chiến tranh Việt Nam[153][154] Tại cuộc họp, thiếu tướng Phạm Văn Phú báo cáo tổng quát diễn biến chiến sự tại Tây Nguyên; trong đó, tướng Phú thỉnh cầu xin thêm máy bay cho sư đoàn 6 không quân, bổ sung quân số bị tổn thất, tăng viện từ 1 đến 2 lữ đoàn dù để phòng giữ Kon Tum, Pleiku và sau đó dùng để phản kích chiếm lại các vùng đã mất. Nguyễn Văn Thiệu không chấp nhận đề nghị của tướng Phú với lý do "không còn quân tăng phái, Cộng sản có thể đánh mạnh hơn năm 1972" và lệnh cho ông này rút quân về đồng bằng, tái phối trí lại lực lượng.

13 giờ chiều 15 tháng 3, cuộc di tản của Quân đoàn II chính thức bắt đầu trong sự cập rập, vội vã. Thiết đoàn 19 và liên đoàn 6 biệt động quân mở đường từ Pleiku đi Phú Túc. Tiếp đó là bộ phận còn lại của Bộ tư lệnh Quân đoàn II, bộ tư lệnh lữ đoàn 2 kỵ binh thiết giáp, các đơn vị bộ binh, hậu cần. Kế hoạch rút quân của Quân đoàn II QLVNCH không quá bất ngờ đối với Quân Giải phóng. Bất ngờ duy nhất mà Tổng thống Thiệu và tướng Phú tạo ra được là cuộc di tản này được tiến hành quá nhanh. Đến chiều 15 tháng 3, khi cánh quân đi đầu của thiết đoàn 19 đã qua Cheo Reo, Bộ Tư lệnh mặt trận Tây nguyên mới được tin QLVNCH bắt đầu rút khỏi Pleiku và Kon Tum. 20 giờ tối 16 tháng 3, lệnh truy kích mới được ban bố. Tiểu đoàn 9, trung đoàn 64 (sư đoàn 320 QGP) là đơn vị đầu tiên được điều động đã hành quân cắt rừng suốt đêm để lập một chốt chặn ở phía Nam thị xã Cheo Reo. Theo sát họ là đội hình chính của trung đoàn 64 hành quân trên 110 xe ô tô các loại được huy động. Bộ Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên đã có ngay một kế hoạch chặn đánh trên đường số 7, sử dụng toàn bộ sư đoàn 320, tiểu đoàn xe tăng 2 (trung đoàn 273), trung đoàn pháo binh 675, trung đoàn cao xạ 593 và hai tiểu đoàn quân địa phương ở Phú Yên.[155].

Sáng 17 tháng 3, tốp xe tăng, thiết giáp đi đầu của thiết đoàn 19 và liên đoàn 6 biệt động quân QLVNCH đã chạm súng với tiểu đoàn 9, trung đoàn 64 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tại đèo Tuna, cách Cheo Reo 4 km về Đông đông Phú Bổn. Đoàn xe di tản khổng lồ ứ lại tại Cheo Reo. Từ chiều tối 17 đến sáng 18 tháng 3, chuẩn tướng Tất sử dụng liên đoàn 7 biệt động quân với sự yểm họ của không quân, pháo binh và thiết giáp liên tục công kích nhổ chốt, vu hồi bọc chốt để mở đường nhưng đều bị đẩy lùi.[156] Sáng 18 tháng 3, toàn bộ trung đoàn 64 (sư đoàn 320A Quân Giải phóng) đã triển khai xong các chốt chặn tiếp theo phía hạ lưu đèo Tuna; trung đoàn 48 (thiếu) của sư đoàn này và trung đoàn 9 (sư đoàn 968) đã bao vây Cheo Reo từ ba mặt.[157].

Trưa ngày 18, chuẩn tướng Phạm Văn Tất điều liên đoàn 25 biệt động quân đang làm nhiệm vụ cản hậu vượt lên trước cùng với lữ đoàn 2 thiết kỵ mở cuộc công kích cuối cùng để mở đường. Cũng thời điểm đó, các đơn vị pháo binh của trung đoàn 675 bắt đầu pháo kích các vị trí đóng quân tạm thời của QLVNCH trong thị xã Cheo Reo và 3 trung đoàn bộ binh Quân Giải phóng bắt đầu tấn công. Trong sự hỗn loạn, mọi cố gắng ổn định lại tình hình và tổ chức kháng cự của các vị chỉ huy QLVNCH trở nên vô vọng. 17 giờ chiều, chuẩn tướng Phạm Duy Tất nhận được lệnh phá bỏ tất cả các chiến cụ nặng. 17 giờ 30, một chiếc HU-1A vượt qua làn đạn phòng không của đối phương hạ cách xuống sân trường tiểu học Phú Bổn để đưa tướng Tất và đại tá Hoàng Thọ Nhu (tỉnh trưởng Pleiku) về Nha Trang.[158]. Đến 9 giờ sáng ngày 19 tháng 3, các đơn vị QLVNCH bị vây tại Cheo Reo chấm dứt kháng cự. Chỉ có thiết đoàn 19 và liên đoàn 6 biệt động quân về được đến Củng Sơn với ít thiệt hại, thương vong nhất. Trên đường về Tuy Hoà, họ phải dừng lại tại sông Ba bốn ngày để chờ công binh thiết lập lại bến phà. Cuối cùng, các đơn vị này về đến Tuy Hòa ngày 25 tháng 3 năm 1975.[159]

Theo các nhà bình luận quân sự phương Tây, thất bại trong của cuộc rút lui của Quân đoàn II QLVNCH trên đường số 7 kèm theo những tổn thất rất nặng nề cả về quân sự và dân sự. Ít nhất 3/4 lực lượng của Quân đoàn II đã bị bắt sống hoặc đào ngũ[160] Cơ quan CIA tại Sài Gòn nhận xét rằng chỉ cần một sư đoàn rút về được đến ven biển với tổn thất tối thiểu cũng đã là một sự may mắn.[161] Số tài sản quân sự gồm xe tăng M48 Patton, xe bọc thép M-113, đại bác M-107 175mm, đại bác HM-3 155mm, đại bác HM-2 105mm bị phá hủy hoặc rơi vào tay Quân Giải phóng lên đến con số hàng nghìn.

Phía Quân Giải phóng cho biết họ chỉ sau tám ngày cuối chiến dịch, họ đã loại phá hủy và thu giữ hơn 2.000 xe quân sự, trong đó có 207 xe tăng và xe bọc thép.[141]

Chiến dịch Huế- Đà Nẵng

Tháng 3 năm 1975, lực lượng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trên địa bàn Trị Thiên Huế có lữ đoàn xe tăng 203. Phía đối diện vào năm 1975, Quân khu I - Quân đoàn I Quân lực Việt Nam Cộng hòa là đơn vị có biên chế mạnh nhất trong các quân khu, biệt khu. Do nằm ở địa bàn đối diện với miền Bắc, Quân đoàn này có 5 thiết đoàn xe tăng, xe bọc thép 4, 7, 11, 17, 20; 13 chi đội xe bọc thép tăng phái cho các sư đoàn bộ binh; 2 tiểu đoàn cao xạ tự hành. Quân đoàn này cũng nắm trong tay và sở hữu một khối lượng binh lực, vũ khí, phương tiện chiến tranh và dự trữ hậu cần rất lớn gồm 449 xe tăng, xe bọc thép; 27 xe bọc thép M-42 gắn cao xạ 40 mm 2 nòng; 37 xe cùng loại gắn súng máy 6 nòng loại Vulcan[162]

Binh lực chủ yếu tại cánh quân phía Bắc của Quân đoàn I - Quân lực Việt Nam Cộng hoà đóng ở Trị Thiên Huế được bố trí thành 7 khu vực phòng thủ:

  • Khu vực từ Thị xã Quảng Trị đến sông Mỹ Chánh có thiết đoàn 17 (thiếu).
  • Khu vực từ bờ nam sông Mỹ Chánh đến cửa ngõ phía Bắc thành phố Huế có thiết đoàn 20.
  • Khu vực Tây Bắc thành phố Huế không có đơn vị thiết giáp.
  • Khu vực thành phố Huế: không có đơn vị thiết giáp
  • Khu vực đồng bằng sông Hương từ Tây Nam Huế đến Phú Lộc có 1 chi đoàn của thiết đoàn 17
  • Khu vực ven biển từ Phú Lộc đến Bắc đèo Hải Vân [163]

Để thực hiện kế hoạch tấn công, Bộ tư lệnh mặt trận Trị Thiên sử dụng trung đoàn pháo cơ giới của Quân khu Trị Thiên và lữ đoàn xe tăng 203 tấn công Trị Thiên Huế. Trong giai đoạn đầu của chiến dịch tạm thời chỉ sử dụng 1 đại đội xe tăng.[164]

Một ngày sau khi chiến dịch Tây Nguyên mở màn; ngày 5 tháng 3 năm 1975, chiến dịch xuân hè 1975 tại Trị Thiên được phát động bằng trận phục kích chặn đánh đoàn xe tiếp vận của Quân lực Việt Nam Cộng hoà trên đèo Hải Vân và trận đánh sập cầu An Lỗ trên đường số 1 ở phía bắc Huế.[165]

Ngày 10 tháng 3, chi đoàn thiết giáp 47 ở Núi Nghệ bị trung đoàn 1 (sư đoàn 324) tiêu diệt. Căn cứ Phổ Lại do tiểu đoàn bảo an 130 đóng giữ bị trung đoàn 4 (Quân khu Trị Thiên) tấn công tiêu diệt với sự chi viện của trung đoàn pháo binh 223 của quân khu. Ngày 13 tháng 3, tướng Lâm Quang Thi điều các chi đoàn thiết giáp 27 và 37 mở cuộc phản kích và chia đôi điểm cao 224 với đối phương sau 7 ngày giao chiến.[166]

Trở lại Quân đoàn I vào chiều hôm đó, tướng Trưởng vẫn chưa dám phổ biến ngay quyết định của Thiệu. Một mặt ông muốn chứng minh cho Thiệu thấy là mình đúng do còn có thời gian và binh lực chưa bị nhiều tổn thất; mặt khác, ông cũng không muốn gây hoang mang cho cấp dưới khi chiến cuộc còn chưa ngã ngũ.[167][168] Nhận thấy mặt Nam của Quân khu cũng bị đe doạ, Ngô Quang Trưởng cũng điều chỉnh lại kế hoạch phòng thủ theo mô hình một gốc hai cành; lấy Đà Nẵng làm trung tâm phòng ngự (gốc), cánh Bắc là Trị Thiên, cánh Nam là Quảng Nam, Quảng Ngãi. Do phải trả sư đoàn dù về Sài Gòn, ông ra lệnh rút lữ đoàn 369 thủy quân lục chiến vào Quảng Nam thay thế lữ dù 3, điều lữ đoàn 258 thủy quân lục chiến về đèo Phú Gia (Bắc Hải Vân) thay thế lữ dù 2. Việc này làm cho trung tá Đỗ Kỷ, tiểu khu trưởng Quảng Trị lập tức kháng nghị vì việc rút 2 lữ đoàn này cũng có nghĩa là rút kèm theo 2 tiểu đoàn pháo binh và 1 chi đoàn thiết giáp tăng phái. Tướng Trưởng chỉ còn có thể giải thích rằng đây là lệnh của tổng thống và chấp thuận tăng cường cho hướng Quảng Trị liên đoàn biệt động quân 14 lấy từ Đà Nẵng.[169][170]

Đang ở Sài Gòn xin phê chuẩn kế hoạch phòng thủ mới, tướng Ngô Quang Trưởng vội bay ra vùng I và gấp rút tổ chức lại tuyến phòng thủ ở cánh Bắc của Quân đoàn I. Tại tuyến Mỹ Chánh - Thanh Hương - Kế Môn - Vân Trình có lữ đoàn 147 thủy quân lục chiến; các tiểu đoàn 77, 121, 126 biệt động quân; liên đoàn bảo an 913 và thiết đoàn 17. Lữ đoàn 480 thủy quân lục chiến được điều từ Đà Nẵng ra Tây Bắc Huế để triển khai từ Sịa đến Lương Điền. Sư đoàn 1 bộ binh, liên đoàn 15 biệt động quân và thiết đoàn 7 bố trí thành vòng cung từ Núi Gió, Hòn Vượn qua Bình Điền đến Mỏ Tàu ôm lấy phía Tây và Tây Nam Huế. Lữ đoàn 258 thủy quân lục chiến và liên đoàn bảo an 914 giữ đường số 1 nối Huế với Đà NẵngPhú Lộc.[171] Thiết đoàn 20 giữ sân bay Phú Bài. Tổng số binh lực có 27.500 quân chủ lực, 19.000 quân bảo an và 36.000 quân phòng vệ dân sự.[172]

Từ đêm 21 đến 10 giờ 30 phút ngày 22 tháng 3, trung đoàn 18 (sư đoàn 325) đã cắt đứt đường số 1 trên địa đoạn dài 4 km từ Ràng Bò đến Bạch Thạch. Cầu Thừa Lưu bị đơn vị đặc công nước K5 đánh sập. Hàng nghìn xe quân sự và dân sự các loại đang trên đường từ Huế vào Đà Nẵng phải quay lại.[173] Ngày 21 tháng 3, căn cứ Truồi bị tấn công. Thiết đoàn 20 tiến ra giải tỏa đường số 1 bị lữ đoàn xe tăng 203 đánh vỗ mặt phải lùi lại Phú Bài. Ngày 22 tháng 3, đến lượt phòng tuyến sông Mỹ Chánh bị vỡ. Toàn bộ cánh bắc của Quân đoàn I Quân lực Việt Nam Cộng hoà bị hợp vây từ ba phía.

Ngày 24 tháng 3, các tiểu đoàn 3 và 812 của tỉnh đội Quảng Trị QGP được tăng cường 1 đại đội xe tăng tấn công xuyên qua các chốt Sông Bồ, Phổ Trạch, Lương Mai, Bao Vinh, Xuân Viên, Thanh Hương do 2 tiểu đoàn bảo an Quân lực Việt Nam Cộng hoà chặn giữ, truy kích cánh quân này đến Phong Hoà, Phong Bình, Sịa và đánh chiếm quận lỵ Hương Điền và ngã ba Sình, khóa chặt cửa Thuận An. Trên hướng chính diện, lúc 16 giờ 30 ngày 23 tháng 3, trung đoàn 101 (sư đoàn 325) đánh chiếm Lương Điền, áp sát sân bay Phú Bài, mở cánh cửa vào Huế từ phía Nam. Trung đoàn 46 (Quân khu Trị Thiên) phá vỡ phòng tuyến sông Bồ, đánh chiếm quận lỵ Quảng Điền, Quảng Lợi, Hương Cần, cầu Thanh Hà, cầu An Hoà, mở cửa vào Huế từ phía Tây Bắc.[174]

Vào thời điểm đầu năm 1975, Đà Nẵng là thành phố lớn thứ hai của miền Nam Việt Nam với dân số gần một triệu người. Đây không chỉ là trung tâm kinh tế - chính trị của vùng I (Quân khu I Quân lực Việt Nam Cộng hoà) mà còn là căn cứ quân sự liên hợp hải - lục - không quân lớn nhất miền Nam với 4 cảng lớn trong đó có cảng Sơn Trà là cảng nước sâu hiện đại; các sân bay Đà Nẵng và Nước Mặn, trong đó, Đà Nẵng là sân bay cấp quốc tế; hệ thống kho tàng có sức chứa hàng chục vạn tấn bom đạn, vũ khí, phương tiện chiến tranh, quân trang quân dụng, xăng dầu, lương thực, thực phẩm. Ngoài ra, còn có căn cứ rada đa chức năng đặt tại Sơn Trà do quân đoàn 3 dã chiến (3rdMAF) của Hoa Kỳ quản lý trước đây và bàn giao lại cho Quân lực Việt Nam Cộng hoà sau Hiệp định Paris.[175]

Sau khi mất Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng NamQuảng Ngãi, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu gửi cho các tư lệnh quân khu bức công điện số 015/TT/CĐ ngày 25 tháng 3 năm 1975, trong đó yêu cầu: "Tất cả những tỉnh, những phần đất còn lại của Việt Nam Cộng hoà hiện còn đến ngày 25-3-1975 phải được tử thủ và bảo vệ đến cùng... chỉ huy các cấp phải vận dụng mọi sáng kiến và phương tiện để phản công".[176] Thực hiện lệnh này, ngày 26 tháng 3, trung tướng Ngô Quang Trưởng cố gắng thu gom các đơn vị còn lại với tổng số quân trên dưới 75.000 người về phòng thủ thành hai tuyến quanh Đà Nẵng.

  • Tuyến ngoại vi: Lữ đoàn 258 thủy quân lục chiến (thiếu) và Liên đoàn bảo an 914 giữ Hải Vân từ Phước Tường đến Liên Chiểu. Lữ đoàn 369 thủy quân lục chiến và trung đoàn 57 (sư đoàn 3) giữ Đại LộcĐồng Lâm. Lực lượng còn lại của lữ đoàn 147 thủy quân lục chiến (khoảng 1 tiểu đoàn) và Bộ tư lệnh sư đoàn thủy quân lục chiến giữ sân bay Nước Mặn. Trung đoàn 56 (sư đoàn bộ binh 3) giữ Vĩnh Điện. Trung đoàn 2 (sư đoàn 3) ở Ninh Quế. Liên đoàn 15 biệt động quân giữ Bà Rén.
  • Tuyến tử thủ: Liên đoàn 912 bảo an, các đơn vị còn lại của các thiết đoàn 11 và 20 phòng thủ địa đoạn Phước Tường - Hòa Mỹ. Ba tiểu đoàn còn lại của sư đoàn 1, sư đoàn 2 bộ binh và liên đoàn 12 biệt động quân và 3.000 tân binh của trại huấn luyện Hòa Cầm phòng thủ khu vực từ căn cứ Hòa Cầm đến căn cứ Nước Mặn. Các tiểu đoàn bảo an độc lập làm dự bị cơ động trong nội đô.

Tướng Trưởng vẫn còn trong tay 12 tiểu đoàn pháo binh các loại (trong đó có 4 tiểu đoàn được tái trang bị) và sư đoàn 1 không quân bố trí tại các sân bay Đà Nẵng và Nước Mặn là những đơn vị hầu như chưa bị tổn thất để yểm hộ cho các tuyến phòng thủ.[177]

Ngay từ khi các chiến dịch Trị Thiên 1975 và Nam-Ngãi chưa kết thúc, Tổng Quân ủy đã thành lập Bộ Tư lệnh chiến dịch Đà Nẵng và cử trung tướng Lê Trọng Tấn, Phó tổng tham mưu trưởng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam từ Hà Nội vào để chỉ huy chiến dịch này. Ngày 25 tháng 3, Bộ tư lệnh chiến dịch Đà Nãng đã có ngay kế hoạch tác chiến tấn công thành phố từ bốn hướng:

  • Hướng Bắc: sử dụng 1 tiểu đoàn xe tăng chiếm sở chỉ huy quân đoàn I, sư đoàn 1 không quân Quân lực Việt Nam Cộng hoà tại sân bay Đà Nẵng và phát triển đến bán đảo Sơn Trà.
  • Hướng Tây Bắc: 1 tiểu đoàn xe tăng đánh chiếm Sở chỉ huy sư đoàn 3 Quân lực Việt Nam Cộng hoà ở Phước Tường, phát triển đến sân bay Đà Nẵng.
  • Hướng Nam và Đông Nam: 1 tiểu đoàn xe tăng - thiết giáp đánh sân bay Đà Nẵng và Bộ tư lệnh Quân đoàn I, phát triển vào nội đô thành phố.
  • Hướng Tây Nam: không có lực lượng thiết giáp[178]

Trên hướng Tây Nam, khi phát hiện sư đoàn 304 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tiến hành trinh sát chiến đấu, lữ đoàn 369 thủy quân lục chiến bỏ núi Sơn Gà về giữ tuyến trong. Ngày 28 tháng 3, trung đoàn 66 (sư đoàn 304) đánh chiếm quận lỵ Ái Nghĩa và sân bay Nước Mặn, trung đoàn 24 cũng của sư đoàn này tấn công căn cứ Hòa Cầm và Tòa thị chính thành phố. Lữ đoàn 369 thủy quân lục chiến phải lùi về An Đông, Mỹ Khê và bị sư đoàn 2 (Quân khu 5) hợp vây.[179] Hơn 3.000 tân binh Quân lực Việt Nam Cộng hoà tại trại Hòa Cầm nổi loạn, bắn giết các sĩ quan chỉ huy, phá doanh trại, ra hàng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam hoặc bỏ chạy về quê quán.[180] 6 giờ 30 phút sáng ngày 29 tháng 3, các cụm chốt trên đỉnh đèo Hải Vân của Quân lực Việt Nam Cộng hoà bị tràn ngập. Các đơn vị thuộc sư đoàn 325 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tràn xuống đánh chiếm kho xăng Liên Chiểu, cầu Nam Ô, cầu Trịnh Minh Thế, mở đường cho xe tăng tiến ra bán đảo Sơn Trà và quân cảng.

Chiều 29 tháng 3, các đơn vị thuộc lữ đoàn thiết giáp 203 lần lượt tiến vào Đà Nẵng. Chiến dịch Huế-Đà Nẵng kết thúc.[181]

Ngoài số quân hơn 14 vạn người và hàng vạn đơn vị vũ khí, trang bị tổn thất chỉ sau gần một tháng chiến đấu; tại Quân khu I, Quân lực Việt Nam Cộng hoà đã bỏ lại một khối lượng vũ khí, trang bị, phương tiện chiến tranh và hàng hóa quân sự rất lớn gồm có: 80 xe tăng thiết giáp, trong đó có cả loại M48 hiện đại nhất lúc bấy giờ.[182][183] Riêng ở khu vực cửa Thuận An (nơi có bến tàu chở quân chạy ra biển), Quân lực Việt Nam Cộng hoà đã vứt lại 54 chiếc xe tăng, trong đó chủ yếu là xe tăng M48 còn khá mới, đạn vẫn đầy ắp trong buồng chiến đấu cùng hàng chục xe thiết giáp M113, xe cao xạ tự hành M42, xe công trình M88, hàng chục chiếc xe xích, xe tải kéo theo những cỗ đại bác 105, 155mm. Còn xe GMC, xe Jeep thì lên tới hàng trăm.

Chiến dịch Hồ Chí Minh

Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, QGPMNVN huy động một lực lượng thiết giáp hùng hậu chưa từng có:

Đến thời điểm mở chiến dịch, Quân lực Việt Nam Cộng hòa chỉ còn trong tay hai quân đoàn (III và IV), trong đó Quân đoàn III đã bị tổn thất đáng kể trong Chiến dịch Phan Rang - Xuân Lộc và các trận đánh ở vùng ven đô:

Quân đoàn III và Biệt khu Thủ đô có 624 xe tăng và xe thiết giáp[193]:

  • Tuyến ngoài[194]: Lữ đoàn 3 Thiết giáp.
  • Tuyến trong[195]: Dinh Độc Lập cũng được bố trí làm một trung tâm đề kháng với một Lữ đoàn Cảnh vệ Quốc gia có xe tăng và xe bọc thép tăng cường.[195]

Vùng đồng bằng sông Cửu Long do Quân khu IV - Quân đoàn IV Việt Nam Cộng hòa quản lý biên chế có ba Trung đoàn Thiết kỵ trang bị 493 xe tăng, xe thiết giáp.[196]

Ngày 26 tháng 4 trên hướng Đông, Quân đoàn 2 sử dụng Sư đoàn 304 mở màn cuộc tấn công vào cụm Long Thành - Nước Trong, đánh bật được Lữ đoàn Thủy quân Lục chiến 468 ra rừng cao su, bắn cháy gần 20 xe tăng, xe bọc thép và chỉ bị tổn thất một xe tăng.[197] 17 giờ chiều 27 tháng 4, Trung đoàn 141 của sư đoàn 3 QGP và Đại đội Xe tăng 4 có pháo binh yểm hộ đã đánh chiếm thị xã Bà Rịa và huyện Xuyên Mộc.[198]

Sáng 27 tháng 4, Sư đoàn 325 từ mũi thứ yếu chuyển thành mũi chủ yếu đánh vu hồi vào sườn trái cụm quân Việt Nam Cộng hòa tại Nước Trong - Long Thành, phối hợp với Sư đoàn 304 tấn công từ hướng đối diện. Sư đoàn 5 Không quân Việt Nam Cộng hòa điều động hơn 114 phi vụ oanh kích vào đội hình QGP nhưng không cản được đường tiến của Lữ đoàn Xe tăng 203 Quân Giải phóng và bị bắn rơi 2 chiếc F-5, 4 chiếc A-37, 3 chiếc A-1 và 1 chiếc HU-1A. 16 giờ 30 phút chiều 27 tháng 4, Sư đoàn 325 đánh chiếm Long Thành, bắt hơn 500 tù binh. Sang ngày 28 tháng 4, căn cứ Nhơn Trạch bị Sư đoàn 304 đánh chiếm. Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 cho triển khai ngay Lữ đoàn Pháo binh 164 tại đây để pháo kích sân bay Tân Sơn Nhất. Tuyến phòng thủ hướng Đông Nam Sài Gòn của Quân đoàn III - Quân lực Việt Nam Cộng hòa bị vỡ một mảng lớn.[198]

Trên hướng Đông Bắc, 4 giờ 7 phút sáng 27 tháng 4, Quân đoàn 4 gồm Sư đoàn 341Sư đoàn 6 tấn công Trảng Bom, Suối Đỉa và Long Đạt, tướng Lê Minh Đảo điều Chiến đoàn 52 có 8 xe tăng yểm hộ đánh vào sườn đội hình tấn công của Sư đoàn 7 nhưng lại bị Sư đoàn 341 tấn công từ bên sườn, 4 xe tăng bị bắn cháy. 9 giờ sáng 27 tháng 4, số quân còn lại của Sư đoàn 18 và một chi đoàn của Lữ đoàn 3 Thiết giáp Quân lực Việt Nam Cộng hòa rút từ Trảng Bom về Suối Đĩa đã bị phục kích hai bên đường, khoảng 2000 quân và gần 100 xe các loại bị Sư đoàn 341 QĐNDVN bắt giữ.[199] Trên hướng thọc sâu, Sư đoàn 7 (Quân đoàn 4) phát triển đến Hố Nai thì phải dừng lại để phối hợp với sư đoàn 341 và sư đoàn 6 thực hiện đòn tấn công tổng hợp vào các lực lượng của Lữ đoàn 3 Thiết giáp và Lữ đoàn Dù 4 Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Đến quá nửa đêm 28 tháng 4, do bị thệt hại nặng, Lữ đoàn 3 Xe tăng và Lữ đoàn 4 Dù phải lùi về Gò Vấp.[200]

Đợt 2 tại hướng Bắc, 27 tháng 4, Quân đoàn 1 - Quân Giải phóng mới đưa được những đơn vị chủ lực của mình bước vào chiến đấu. Trên mũi tấn công chủ yếu, Sư đoàn 320B - được tăng cường Tiểu đoàn Xe tăng 66 của Lữ đoàn 202, một Đại đội Xe tăng độc lập, một Tiểu đoàn Công binh công trình, một Tiểu đoàn Pháo 130 mm, có cụm pháo của Lữ đoàn Pháo binh 45 (đoàn Tất Thắng) yểm hộ - đã tấn công Chi khu Tân Uyên và sân bay Ông Lĩnh, đánh thông đoạn phía đông Đường 16, mở đường đột phá sâu vào trung tâm Sài Gòn, tiến đến Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa, một trong năm mục tiêu quan trọng nhất của chiến dịch.[201]

Tại mũi thứ yếu, phát hiện Sư đoàn 312 đang bao vây căn cứ Phú Lợi, tiến công Lai Khê; tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư lệnh Sư đoàn 5 Quân lực Việt Nam Cộng hòa sử dụng Chiến đoàn 7, có xe tăng yểm hộ, cố giải tỏa Đường 13 và 14, đồng thời tăng cường cho cứ điểm An Lợi. Nhưng khi đoàn xe di chuyển đến khu vực Tam Giáo thì rơi đúng vào mũi tấn công của chủ lực sư đoàn 312, có Lữ đoàn Xe tăng 202 (thiếu) yểm hộ. Sau khi bị bắn cháy ba chiếc xe đi đầu, Chiến đoàn 7 Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã bị tách khỏi chủ lực Sư đoàn 5 ở Lai Khê và toàn bộ Sư đoàn 5 cũng bị cô lập ở phía Bắc Thủ Dầu Một. Trên đường vào nội đô, Quân đoàn 1 còn phải khắc phục các bãi mìn, vật cản chống xe tăng, xe cơ giới, có chỗ rộng đến 100 m, dài hơn 200 m. Đến 15 giờ ngày 29 tháng 4, sau khi gỡ hết các mìn chống tăng, mở đường vòng tránh và sử dụng tù binh dẫn đường, Quân đoàn 1 đã tập kết trước cứ điểm Lái Thiêu và chỉ còn cách trung tâm Sài Gòn - Gia Định khoảng 15 km.[202]

Từ 9 giờ ngày 30 tháng 4, Quân đoàn 1 QGP lần lượt đánh chiếm Bộ Tư lệnh Thiết giáp, Bộ Tư lệnh Lục quân công xưởng, Tổng kho Quân nhu, Tổng y viện Quân lực Việt Nam Cộng hòa, căn cứ 31, căn cứ 60, quận lỵ Gò Vấp, Trung tâm Truyền tin Điện tử; đánh tan cụm phòng thủ Bắc cầu Bình Triệu do các Thiết đoàn 15, 18, 22 của Lữ đoàn 3 Kỵ binh và 2 Tiểu đoàn Dù chốt giữ, thu 144 xe tăng, xe thiết giáp.[203]

Tại hướng Tây Bắc, Đêm 28 tháng 4, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 QGP đã điều động Sư đoàn 320A (thiếu) tiềm nhập vào khu vực Củ Chi bằng một cuộc hành quân bí mật ban đêm. Đơn vị này được tăng cường một Tiểu đoàn Pháo 155 mm, một Trung đoàn Phòng không. 5 giờ 30 phút sáng ngày 29 tháng 4, các đơn vị này bất ngờ nổ súng tấn công căn cứ Đồng Dù, sở chỉ huy của Sư đoàn 25 - Quân lực Việt Nam Cộng hòa do Chuẩn tướng Lý Tòng Bá làm Sư đoàn trưởng. Tại căn cứ này, tướng Bá nắm trong tay hơn 3000 quân, 34 xe tăng, xe bọc thép, 4 khẩu pháo M107 175 mm, 4 khẩu 155 mm, 10 khẩu 105 mm để thực hiện ý đồ tử thủ đến cùng. Sau cuộc pháo kích kéo dài 2 giờ đồng hồ, Sư đoàn 320A và các đơn vị phối thuộc tràn vào căn cứ Đồng Dù. Lúc 8 giờ, ba chiếc xe tăng T-54 được phối thuộc cho Sư đoàn 320A bị bắn cháy tại cửa mở nhưng cũng đổi được ba chiếc M-48 của Trung đoàn 10 Thiết giáp Quân lực Việt Nam Cộng hòa đóng tại căn cứ này. Lúc 9 giờ 30 phút, Đại tá Nguyễn Kim Tuấn và Ban Chỉ huy Sư đoàn 320A điều Trung đoàn 9 và 8 xe tăng còn lại của Tiểu đoàn Thiết giáp từ lực lượng dự bị tiếp tục tăng cường cho Trung đoàn 48 tấn công dứt điểm căn cứ Đồng Dù.[204] Đến 10 giờ 30 phút cùng ngày, các chốt kháng cự của Sư đoàn 25 - Quân lực Việt Nam Cộng hòa tại Đồng Dù lần lượt bị dập tắt.[205]

5 giờ 30 phút sáng 30 tháng 4, sau một trận pháo kích từ tất cả các cỡ súng lớn của Quân đoàn, Sư đoàn 10 và hai Đại đội Xe tăng của Trung đoàn Thiết giáp 273 - Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tấn công sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tư lệnh Thiết giáp, Bộ Tư lệnh Không quân và Sở Chỉ huy Trung đoàn 5 Không quân Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Sư đoàn 320A tách Trung đoàn 28 sang phối hợp với Quân đoàn 1 đánh chiếm Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa, điều Trung đoàn 64 có một Đại đội Xe tăng K-63 (PT-85) đi kèm tiến về phía sau Dinh Độc Lập qua đường Lê Văn Duyệt và đường Hồng Thập Tự còn Trung đoàn 24 và 2 tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn Xe tăng 273 thì phối hợp với Trung đoàn 48 Sư đoàn 320B (Quân đoàn 1) đánh chiếm Bộ Tổng Tham mưu Việt Nam Cộng hòa. Khi các đơn vị này đến nơi thì các đơn vị phái đi trước của Lữ đoàn Xe tăng 203 và Trung đoàn 66 (Sư đoàn 304) đã có mặt tại Dinh Độc Lập trước đó 30 phút.[206]

Tại hướng Đông Bắc, Chướng ngại cuối cùng đối với Quân đoàn 4 QGP trên đường tiến vào Sài Gòn là khu phòng thủ Hố Nai - Long Bình - Tam Hiệp do nhữug lực lượng còn lại của Sư đoàn 18, 2 tiểu đoàn còn lại của Lữ đoàn Kỵ binh Thiết giáp số 3 và Liên đoàn Bảo an 318 phòng thủ. Tại đây, tướng Lê Minh Đảo đã cho đào 4 lớp hào chống tăng, đặt âm các xe tăng trong công sự, hình thành nhiều ổ đề kháng cố định và cơ động. Để giải quyết nhanh cụm phòng thủ này, ngày 29 tháng 4, tướng Hoàng Cầm một mặt sử dụng một trung đoàn của Sư đoàn 341 và Trung đoàn Pháo binh 55 dùng hỏa lực chế áp các cứ điểm phòng thủ của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, mặt khác điều hai trung đoàn 266 và 270 phối hợp với Sư đoàn 6 vòng qua cụm chốt đánh chiếm sân bay Biên Hòa, Sở Chỉ huy Quân đoàn III - Quân lực Việt Nam Cộng hòa, Sở Chỉ huy Sư đoàn 3 Không quân, trận địa pháo Hốc Bà Thức và Tổng kho Long Bình.[207] 4 giờ sáng ngày 30 tháng 4, Sư đoàn 7 (Quân đoàn 4) đã có mặt tại cầu Ghềnh. Do cầu yếu (trọng tải 12 tấn/lượt xe), toàn bộ xe tăng của Quân đoàn 4 phải di chuyển qua cầu Xa lộ để vào Sài Gòn.[208]

bản sao xe tăng 843 tai Dinh Độc Lập

Tại hướng Tây Nam, Đêm 29 tháng 4, Sư đoàn 9 đảm nhận mũi tấn công chủ yếu của đoàn 232 cùng với hai tiểu đoàn xe tăng sau khi vượt qua các chướng ngại đồng lầy, sông nước tại Long An đã sử dụng Trung đoàn 1 đánh chiếm cầu Bà Lác, ngã năm Vĩnh Lộc, theo đường Lê Văn Duyệt tấn công Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô; Trung đoàn 2 được tăng cường 7 xe tăng T-54, 16 xe bọc thép BTR-60, 2 xe M-113 hình thành mũi tấn công thứ hai vào Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô qua ngả An Ninh, Mỹ Hạnh. Trung đoàn 3 của sư đoàn này có 3 xe tăng T-54, 6 xe BTR-60 đã tiêu diệt Sở Chỉ huy Liên đoàn 8 và Tiểu đoàn quân 88 trên tuyến vành đai Đại Hàn; tiếp đó đánh tan Tiểu đoàn Bảo an 327 ở nam Vĩnh Lộc, diệt chi khu Bà Hom, đánh chiếm trường đua Phú Thọ.[209]

Tại hướng Đông Nam, Sáng 30 tháng 4, cụm đột kích sâu nhanh chóng dập tắt các ổ đề kháng của Quân lực Việt Nam Cộng hòa tại cầu Xa Lộ, Căn cứ Rạch Chiếc, căn cứ Nguyễn Huệ, Học viện Cảnh sát, cầu Sài Gòn. Pháo binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa trụ lại tại căn cứ Thủ Đức dùng hỏa lực súng cối và súng chống tăng M-72 chặn đánh và chia cắt đội hình Tiểu đoàn Xe tăng 5 (Lữ đoàn 203). Một phân đội của Lữ đoàn 203 liền kéo vào tiêu diệt nhóm pháo binh này. Tại đây xe tăng 707 của lữ đoàn đã phải chiến đấu đến người cuối cùng.[210] Đến 9 giờ sáng 30 tháng 4, sau khi dồn bộ phận còn lại của đối phương vào trong căn cứ Thủ Đức, Tiểu đoàn 5 để lại cụm quân này cho Trung đoàn 18 (Sư đoàn 325) xử lý và đuổi theo các đơn vị đi đầu lúc này đã đến cầu Sài Gòn. Sau khi đánh tan sức kháng cự của 8 xe tăng có sự phối hợp của 6 tàu chiến hải quân Quân lực Việt Nam Cộng hòa đậu tại Tân Cảng, cụm đột kích sâu nhanh chóng vượt qua cầu Sài Gòn tiến vào đường Hồng Thập Tự,[211] nhưng cũng mất 4 xe tăng và Tiểu đoàn trưởng Ngô Văn Nhã của Lữ đoàn Xe tăng 203 tử trận.

Sau khi tiêu diệt cụm chốt cuối cùng của Quân lực Việt Nam Cộng hòa tại cầu Thị Nghè gồm 4 xe tăng và 6 lô cốt chỉ trong vòng 15 phút, Tiểu đoàn Xe tăng 1 (Lữ đoàn 203) đã tiếp cận cổng Dinh Độc Lập qua ngả Thảo Cầm Viên. Xe tăng 843 lao vào húc cánh cổng phụ bên trái của dinh nhưng bị kẹt lại. Còn xe tăng 390 do Chính trị viên Đại đội Vũ Đăng Toàn chỉ huy húc đổ cánh cổng chính và tiến vào sân Dinh Độc Lập.[212] Đại đội trưởng Bùi Quang Thận ra khỏi xe 843, lấy lá cờ  trên xe của mình đem vào treo lên cột cờ trên nóc Dinh Độc Lập lúc 11 giờ 30 phút.[213]

Trong toàn bộ chiến dịch, Quân Giải phóng tịch thu hơn 400 xe tăng - xe thiết giáp hơn 3.000 xe quân sự và toàn bộ kho tàng.[214]

Liên quan

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Xe tăng tại Việt Nam http://tank-biathlon.com/tankovyiy-biatlon-2018/ http://webdoc.sub.gwdg.de/ebook/p/2005/CMH_2/www.a... http://citeseerx.ist.psu.edu/viewdoc/download?doi=... http://grunt-redux.atspace.eu/arvn_armour1.htm http://usacac.army.mil/cac2/cgsc/carl/download/csi... http://stinet.dtic.mil/oai/oai?&verb=getRecord&met... http://www.militaryphotos.net/forums/archive/index... http://ia600601.us.archive.org/26/items/DTIC_ADA09... http://ia800100.us.archive.org/11/items/DTIC_ADA09... http://mcvthf.org/Maps/Tanks_in_Hue.htm